CHIẾN TRƯỜNG KHÔNG TIẾNG SÚNG
Truyện ngắn
Truyện ngắn
Buộc chặt bao gạo được vắt ngang trên giá đèo hàng của chiếc xe đạp Phượng Hoàng đã cũ. Hắn nắn từng chiếc lốp, xem lại bao, bơ, áo mưa như kiểm tra vũ khí trước khi ra chiến trường.
Xong xuôi vào bàn thờ châm nén hương khấn vái cầu may, sao cho chuyến đi trót lọt. Rồi đùn xe ra khỏi nhà lòng hồi hộp, lo lắng không khác gì bước vào trận đánh năm xưa.
Trời về khuya không trăng sao, đoạn đường khoảng mười cây số sao mà nó dài thế. vài chục cân gạo mang lên thị xã bán cho mấy bà hàng bún hồi đó được coi là phạm pháp, quản lý thị trường, công an, phòng thuế vây bắt như bắt thuốc phiện. Nền kinh tế bao cấp của đất nước sau chiến tranh chưa được xoá bỏ vẫn ngăn sông cấm chợ.
Năm 17 tuổi hắn đã thoát ly gia đình đi học ngành cơ khí được hơn hai năm thì nhập ngũ và đi chiến trường, đến sau giải phóng được ra bắc nhưng lại vướng chiến tranh biên giới. Là thương binh hắn được điều về tỉnh đội HD công tác. Năm 1976 xây dựng gia đình vợ hắn cũng là người cùng quê. Mới vài năm sinh liền một trai hai gái. Tuy là sĩ quan nhưng lương thấp, đồng tiền trượt giá cuộc sống gia đinh chật vật bữa no bữa đói. Thế rồi nhân có chính sách mới của cán bộ quân đội bấy giờ phải có bằng cấp, ai chưa thì đi học, ai không học thì về phục viên hay nghỉ chế độ.
Ăn còn chả đủ lấy đâu ra mà đi học, nhà lại còn mẹ già , con nhỏ hắn liền xin ra quân, may mà có thương tật ở chiến trường, hắn được nghỉ theo chế độ thương bệnh binh có chút phụ cấp cùng mười ba cân gạo phiếu.
Ba gian nhà tre vách đất cây cột cong queo, đêm ngủ chẳng cần đóng cửa. tài sản bao năm của hắn gói gọn để trong hòm quần áo là mấy tấm huân chương, huy hiệu chiến dịch, mà hắn coi như báu vật bởi nó là kỷ niệm của một thời chinh chiến, mấy đứa con ngày một lớn và khỏe mạnh thật phúc đức tổ tiên đã phù hộ, bởi có một thời hắn đã ở vùng nhiễm chất độc da cam.
Về quê tưởng khôi phục ngay được kinh tế gia đình nào ngờ làm gì thất bại đấy, trồng tỏi xuất khẩu cho HTX thì không đủ sản lượng, do chưa có kinh nghiệm, trồng dưa hấu phải năm thời tiết không thuận, đang xanh mơn mởn quả lăn lóc như lợn con thì gặp mưa bão mất hết, đã khó lại khó hơn. Bỏ ruộng hắn đi làm phụ cho đội thợ mộc, lúc cưa xẻ, lúc bào vỡ, rồi cả thợ xây dựng, miễn là có tiền đong gạo nuôi con.
Chưa đến 40 mươi tuổi trông hắn như một lão già, người gầy như cây củi lúc nào cũng giấu mình trong bộ quân phục cũ bạc màu. Vất vả cực nhọc, nhưng hắn thầm nghĩ đã thấm gì với hồi ở chiến trường, nhiều khi ăn lá dại, rau rừng thay cơm, rồi chiến dich hàng tháng không được ngủ, lại đạn bom cái sống cái chết dập rình bất cứ lúc nào, những phút ấy chỉ ước ao được về quê, mẹ luộc cho nồi khoai rồi nghĩ đến bát cơm chan với canh cua, cà muối mà chảy nước miếng. Rồi có lúc hắn lại tỏ ra hối hận giá không xin về cứ ở quân đội biết đâu giờ lại khá hơn, nhưng thôi đời có số mà. Cũng may vợ hắn chịu thương chịu khó không lời kêu ca. rồi hắn chợt nhớ tới bài thơ của nhà thơ Hoàng Đình Quang “Chúng mình sống đến hôm nay/ Còn bao nhiêu đứa gửi thây rừng già/ Ơn trời đất, ơn mẹ cha/ Đội ơn vợ đã vì ta mà nghèo!”
Quê hắn là một làng nghèo , người đông ruộng ít, hợp tác hóa nông nghiệp, thời vụ làm hưởng theo công điểm chẳng được là bao, chưa hết mùa đã hết thóc, nghề phụ kiếm ăn thêm là hàng xay hàng sáo quanh quẩn chợ làng chẳng được bao nhiêu. Nhiều đêm trăn trở cứ cái ngữ này bao giờ mới ngẩng mặt lên, rồi con cái học hành ra sao. Cái khó ló cái khôn, ngày còn tại ngũ ở thị xã giá gạo chênh với quê hắn vài đồng một cân, mà quê mình lại làm nghề thóc gạo sao mình không mang lên bán để kiếm lời nhỉ, nhưng ngặt nỗi chính sách bấy giờ cấm đoán địa phương nào tiêu thụ địa phương ấy, kể cả rau quả nông sản mang sang địa phương khác coi là buôn lậu, nếu quản lý thị trường bắt được sẽ tịch thu,
Xong xuôi vào bàn thờ châm nén hương khấn vái cầu may, sao cho chuyến đi trót lọt. Rồi đùn xe ra khỏi nhà lòng hồi hộp, lo lắng không khác gì bước vào trận đánh năm xưa.
Trời về khuya không trăng sao, đoạn đường khoảng mười cây số sao mà nó dài thế. vài chục cân gạo mang lên thị xã bán cho mấy bà hàng bún hồi đó được coi là phạm pháp, quản lý thị trường, công an, phòng thuế vây bắt như bắt thuốc phiện. Nền kinh tế bao cấp của đất nước sau chiến tranh chưa được xoá bỏ vẫn ngăn sông cấm chợ.
Năm 17 tuổi hắn đã thoát ly gia đình đi học ngành cơ khí được hơn hai năm thì nhập ngũ và đi chiến trường, đến sau giải phóng được ra bắc nhưng lại vướng chiến tranh biên giới. Là thương binh hắn được điều về tỉnh đội HD công tác. Năm 1976 xây dựng gia đình vợ hắn cũng là người cùng quê. Mới vài năm sinh liền một trai hai gái. Tuy là sĩ quan nhưng lương thấp, đồng tiền trượt giá cuộc sống gia đinh chật vật bữa no bữa đói. Thế rồi nhân có chính sách mới của cán bộ quân đội bấy giờ phải có bằng cấp, ai chưa thì đi học, ai không học thì về phục viên hay nghỉ chế độ.
Ăn còn chả đủ lấy đâu ra mà đi học, nhà lại còn mẹ già , con nhỏ hắn liền xin ra quân, may mà có thương tật ở chiến trường, hắn được nghỉ theo chế độ thương bệnh binh có chút phụ cấp cùng mười ba cân gạo phiếu.
Ba gian nhà tre vách đất cây cột cong queo, đêm ngủ chẳng cần đóng cửa. tài sản bao năm của hắn gói gọn để trong hòm quần áo là mấy tấm huân chương, huy hiệu chiến dịch, mà hắn coi như báu vật bởi nó là kỷ niệm của một thời chinh chiến, mấy đứa con ngày một lớn và khỏe mạnh thật phúc đức tổ tiên đã phù hộ, bởi có một thời hắn đã ở vùng nhiễm chất độc da cam.
Về quê tưởng khôi phục ngay được kinh tế gia đình nào ngờ làm gì thất bại đấy, trồng tỏi xuất khẩu cho HTX thì không đủ sản lượng, do chưa có kinh nghiệm, trồng dưa hấu phải năm thời tiết không thuận, đang xanh mơn mởn quả lăn lóc như lợn con thì gặp mưa bão mất hết, đã khó lại khó hơn. Bỏ ruộng hắn đi làm phụ cho đội thợ mộc, lúc cưa xẻ, lúc bào vỡ, rồi cả thợ xây dựng, miễn là có tiền đong gạo nuôi con.
Chưa đến 40 mươi tuổi trông hắn như một lão già, người gầy như cây củi lúc nào cũng giấu mình trong bộ quân phục cũ bạc màu. Vất vả cực nhọc, nhưng hắn thầm nghĩ đã thấm gì với hồi ở chiến trường, nhiều khi ăn lá dại, rau rừng thay cơm, rồi chiến dich hàng tháng không được ngủ, lại đạn bom cái sống cái chết dập rình bất cứ lúc nào, những phút ấy chỉ ước ao được về quê, mẹ luộc cho nồi khoai rồi nghĩ đến bát cơm chan với canh cua, cà muối mà chảy nước miếng. Rồi có lúc hắn lại tỏ ra hối hận giá không xin về cứ ở quân đội biết đâu giờ lại khá hơn, nhưng thôi đời có số mà. Cũng may vợ hắn chịu thương chịu khó không lời kêu ca. rồi hắn chợt nhớ tới bài thơ của nhà thơ Hoàng Đình Quang “Chúng mình sống đến hôm nay/ Còn bao nhiêu đứa gửi thây rừng già/ Ơn trời đất, ơn mẹ cha/ Đội ơn vợ đã vì ta mà nghèo!”
Quê hắn là một làng nghèo , người đông ruộng ít, hợp tác hóa nông nghiệp, thời vụ làm hưởng theo công điểm chẳng được là bao, chưa hết mùa đã hết thóc, nghề phụ kiếm ăn thêm là hàng xay hàng sáo quanh quẩn chợ làng chẳng được bao nhiêu. Nhiều đêm trăn trở cứ cái ngữ này bao giờ mới ngẩng mặt lên, rồi con cái học hành ra sao. Cái khó ló cái khôn, ngày còn tại ngũ ở thị xã giá gạo chênh với quê hắn vài đồng một cân, mà quê mình lại làm nghề thóc gạo sao mình không mang lên bán để kiếm lời nhỉ, nhưng ngặt nỗi chính sách bấy giờ cấm đoán địa phương nào tiêu thụ địa phương ấy, kể cả rau quả nông sản mang sang địa phương khác coi là buôn lậu, nếu quản lý thị trường bắt được sẽ tịch thu,
“Đói ăn đầu gối phải bò” hắn đành đánh liều lên thị xã thăm dò tìm mối bán. còn hơn tạ thóc lương ăn của gia đình trong sáu tháng hắn bàn với vợ mang ra làm vốn, và cuộc chiến khác lại mở ra với hắn, đó là thương trường cũng khó khăn, ác liệt không kém, ban ngày các trạm kiểm sát liên nghành chốt chặn đường lớn, tuần tra đường tắt qua làng, thường xuyên ngày cũng như đêm. Nói dại không may bị bắt thì cả nhà chỉ còn nước đi ăn mày, và chính hắn là người có tội với vợ con.
Đêm nay cũng như bao đêm khác vài chục cân gạo trên xe nặng như khối bộc phá đi công đồn, tắt qua mấy làng ven đô chó sủa vang, nhưng mọi người dân cũng chẳng lạ gì thời buổi khó khăn cánh buôn đi sớm. Còn hắn lại hình dung như mình đang đi trinh sát vào lòng địch để chuẩn bị cho trận đánh, đối với hắn giống nhau cả mà thôi xương máu và sự sống.
Đỗ Trọng Kim
Đêm nay cũng như bao đêm khác vài chục cân gạo trên xe nặng như khối bộc phá đi công đồn, tắt qua mấy làng ven đô chó sủa vang, nhưng mọi người dân cũng chẳng lạ gì thời buổi khó khăn cánh buôn đi sớm. Còn hắn lại hình dung như mình đang đi trinh sát vào lòng địch để chuẩn bị cho trận đánh, đối với hắn giống nhau cả mà thôi xương máu và sự sống.
Đỗ Trọng Kim
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét