Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

CẦU VÀNG (Bà Nà Hills)





















CẦU VÀNG (Bà Nà Hills)
Cây cầu như dải lụa đào
Hai bàn tay phật nâng cao giữa trời
Mây ngàn gió núi chơi vơi
Bà nà hills cảnh cao vời non tiên
Mấy o du khách làm duyên
Tóc vờn sương trắng giữa miền bao la
Bóng em in giữa nền hoa
Ngày vui Đà Nẵng mãi là khó quên.
26-72018

PHONG TRÀO THỂ DỤC LÀNG TÔI




















Có câu “ sức khỏe là vàng”
Lắm tiền nhiều bạc chẳng mang được về
Dạo này ở khắp làng quê 
Phong trào thể dục, bốn bề tây đông
Thú vui của mấy cụ ông
Sáng ra tay vợt, cầu lông luyện tài
Đạp xe đường lớn dẻo dai
Mấy bà đi bộ sớm mai rộn ràng
Mấy bài động tác nhẹ nhàng
Dưỡng sinh, thiền định mênh mang tâm ngời
Uống ăn điều độ nghỉ ngơi
Vui cùng con cháu, tuổi thời thọ lâu.
22-7-2018



ÔNG VÀ CHÁU DU LỊCH QUẢNG BÌNH




















Bao ngày háo hức mong chờ
Hôm nay ông cháu đợi giờ lên xe
Ba lô, túi xách, ô che
Áo phao, giày dép, bình chè cho ông
Tung tăng quần cộc, áo phông
Cháu tôi như được sổ lồng bay xa
Tàu đêm đèn sáng như hoa
Bao miền đất nước băng qua đêm dài
Quê mình đẹp ánh ban mai
Rừng xanh núi biếc, sông dài mênh mang
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An
Con đường xưa vẫn ngập tràn trong ông
Ba lô con cóc vượt sông
Dòng Lam xanh thẳm , núi Hồng xa xa
Đói lòng nhút mặn, cháo hoa
Lòng dân là mẹ là cha thảo hiền
Sông Gianh, Cự Nẫm một miền
Phi lao cát trắng, đường xuyên Kẻ Bàng
Làng Ho năm ấy ông sang
Đường dây( 559) năm chín mở màn chiến công
Giọng hò... Nhật Lệ mênh mông
Mái chèo mẹ Suốt, trăng lồng bóng soi
Ngắm nhìn thấy cháu ông cười
Bao nhiêu xương máu bỗng đời nhẹ tênh
Xe lăn khúc nhạc bập bềnh
Nhoà trong kỷ niệm chông chênh thủa nào
Quảng Bình nắng gió lao xao
Mùa vui du lịch ghi vào trang thơ.
29-6-2018

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2018

TĨNH LẶNG ĐỒNG QUÊ


TĨNH LẶNG ĐỒNG QUÊ

Tán văn

                Đã lâu lắm rồi chắc cũng hơn bốn mươi năm, hôm nay có dịp về quê tôi bách bộ trên con đường cao tốc đang mở, mềm mại như một dải lụa vắt qua cánh đồng làng. Chiều vào thu gió heo may nhè nhẹ, những ruộng lúa ngả màu vàng đang vào mùa thu hoạch, hoàng hôn tím dần. Mắt tôi hơi cay cay vì mùi khói rơm, xen lẫn mùi nồng nồng của đất nhưng dễ chịu vô cùng
         Thả hồn trong những suy tư, bỗng ký ức xa xưa lại ùa về, cũng trên cánh đồng này bọn trẻ chúng tôi nô đùa chạy nhảy, vào mùa gặt thì mót thóc, rồi theo bố mẹ ra đồng hái đỗ, nhổ lạc. Nơi đây năm xưa là khu trồng đỗ lạc, vào cuối năm những ruộng lạc ngả màu vàng nhổ lên những chùm củ chi chít, tôi  thích nhất món khoai lang luộc ăn với lạc sống, sao vừa ngọt vừa bùi, tuyệt vời đến thế. Rồi những ngày mưa giông bọn trẻ cởi trần bắt cá rạch, những con rô gặp nước mừng rỡ giương vây và nhảy lên các bờ cỏ. Hạt mưa dàn dạt như kim châm vào thân thể nhưng vẫn ham bởi giỏ cá nặng ngang lưng.
       Rồi những trưa hè trời nắng như đổ lửa, cua cá sao mà nhiều thế, bởi lúc đó chưa có thuốc trừ sâu, diệt cỏ như bây giờ. Khi nước nóng cua ngôm lên thân lúa chỉ việc bắt cho vào giỏ, cá trạch thi nhau chui vào hang nhỏ ven bờ tìm chỗ mát , chỉ cần hứng rổ ngoài miệng rồi lấy tay moi ra thì đủ nấu một nồi riêu. Mùa đông nước cạn những vũng còn thâm màu đất,  trạch dồn về mọi người mang cuốc ra cuốc những con trạch to mập vàng óng đang ẩn mình dưới lớp đất bùn ngoe ngẩy. Mang về om với củ chuối thì ngon tuyệt.
     Nhà tôi có cây khế chua không biết trồng từ bao giờ thân mốc mác nhưng quả trĩu cành, mỗi mùa cá cả xóm đến mua hoặc xin về nấu. Bây giờ nhớ tới nồi cá kho với khế ngày ấy, nhất là hầm trấu nhừ hết cả xương ngon hết chê. Cá kho làng Vũ Đại bây giờ cũng chưa chắc đã bằng, sức trẻ như bọn tôi lúc bấy giờ ăn không biết no mẹ tôi thường bảo:” có cá đổ vạ cho cơm”
    Trước mặt là khu đồng Sổ, ngày còn chiến tranh phá hoại là trận địa pháo phòng không 57 ly, chúng tôi chăn trâu thường hay rẽ vào nghe mấy chú bộ đội kể chuyện chiến đấu, rồi ước mơ lúc nào đó mình cũng sẽ là bộ đội. Gần đấy là khu chùa Dừa nơi chôn dấu các téc xăng dầu phục vụ cho bộ đội nhưng dấu vết giờ này không còn mà đã là nơi mở rộng nghĩa trang của thôn. Nhớ những đêm trăng cùng thanh niên làng kết hợp với dân công về đi đắp ụ tên lửa, ụ pháo thật là vui, xe chở các kiện máy móc hàng hóa đi sơ tán rải khắp ven đường mà không ai lấy, tất cả đều ý thức vì tiền tuyến.
       Bỗng nghe tiếng rào rào của đàn vịt đẻ nhà ai đang tìm về chuồng. Đúng rồi đây là ao Láng Làng, sao bây giờ nhỏ và nông vậy. Ngày ở nhà chúng tôi thường lặn ngụp dận trai sơ cá, nước lớn mênh mông nhất là vào mùa mưa. Và cũng sườn đê này chúng tôi thường chơi trò trọi gà bằng những cây cỏ gà, được thua cãi nhau nghĩ mà vui
Bỗng có tiếng cắt ngang của mấy bà đạp xe thể dục
Thơ thẩn gì đấy ông thẩn thơ ơi( Bởi có chút thơ văn nên các bà ấy gọi tôi là ông thơ thẩn, thẩn thơ)
Rồi từ đáy lòng tôi thốt ra mấy câu thơ:

“ Cánh diều ai thả trên đê
Véo von tiếng sáo, làng quê thanh bình
Tiên -Nha mảnh đất nghĩa tình
Chẳng vơi nỗi nhớ,bóng hình làng tôi.”

Ấy thế mà đã gần nửa thế kỷ trôi qua, hôm nay tôi mới được đắm chìm tận hưởng trong cái không khí trong lành và tĩnh lặng của  đồng quê.




KHOẢNH KHẮC KHÓ QUÊN



KHOẢNH KHẮC KHÓ QUÊN

      Sau trận đánh chặn sư đoàn 18 của Quân lực Việt nam Công Hòa ở Hố Nai Biên Hòa , tôi bị thương chuyển về phía sau điều trị và ăn dưỡng tại trạm k32 thuộc QK7 nằm cạnh bờ sông Đồng Nai.
      Lúc đó chiến dịch mùa Xuân đang vào thời kỳ quyết liệt, chiến thắng Xuân lộc đã mở màn cho thắng lợi, đây được coi là trận Điện Biên Phủ thứ 2 mở đường cho đại quân ta tiến về Sài gòn
Nằm trong lán tre của hậu phẫu, chúng tôi lúc bấy giờ đều là thương binh, nặng có nhẹ có, với chiếc Radio bên mình từng ngày liên tục theo dõi tin chiến thắng trên Đài phát thanh Giải phóng,
       Rồi những gì mong ước đã đến đúng 11h 30 giờ ngày 30-4-1975 một bản tin được phát ra Dương văn Minh đã đầu hàng, miền nam hoàn toàn giải phóng, chúng tôi, cả trạm như vỡ òa ra reo mừng, tay tôi cầm chiếc Radio rơi lúc nào không biết. Bài hát giải phóng miềm nam được cất lên, chẳng ai bảo ai họ hát say sưa như chưa từng được hát.
Đồng chí trưởng trạm đứng giữa lán hô to hôm nay không cần theo chế độ khẩu phần, sẽ mở kho để anh em ăn mừng chiến thắng
Chúng tôi vừa hát vừa khóc, khóc vì mừng, khóc vì tiếc nuối, giá không bị thương, giờ này đang cùng đồng đội tiến vào dinh Độc lập hoặc hòa trong không khí nhộn nhịp cờ hoa của người dân trên từng đường phố Sài Gòn.
                             ĐTK

TRẬN ĐẦU


TRẬN ĐẦU



     Vượt sông an toàn chúng tôi được bổ sung về đơn vị chiến đấu ( tiểu đoàn 1 E 4 trực thuộc quân khu 7 miền Đông Nam bộ) đóng quân ở  khu rừng già, thuộc huyện Trảng Bom tỉnh Biên Hòa. Tôi , Thỉnh, Cảng được bổ sung về trung đội trinh sát của tiểu đoàn, số anh em còn lại biên chế xuống 4 đại đội chiến đấu.
     Tuần đầu được làm quen với chỉ huy và lính cũ toàn người Nam bộ vì đây là trung đoàn địa phương trực thuộc quân khu. Tuy mới lạ nhưng được mọi người ưu ái và tình cảm nên chúng tôi cũng yên tâm. Địa bàn hoạt động ba tỉnh Long- Bà- Biên( Long Khánh, Bà Rịa, Biên Hòa) đây là nơi hoạt động của  lính đánh thuê Úc và sư đoàn 18  VNCH.
      Trung đội trinh sát là anh ba Thân hơn bọn tôi chừng 5 tuổi khoảng 25,  26 gì đó. Nói là trung đội nhưng cả 3 người mới chúng tôi mới là 10 người. Sau ba ngày làm quen, được anh ba Thân tổ chức huấn luyện một số kỹ năng như: xác định bản đồ địa bàn , cách điều nghiên, trinh sát địch vv…và một số kinh nghiệm trong chiến đấu
          Chưa được một tuần thì gặp trận càn của trung đoàn xe tăng Úc càn vào căn cứ. Được lệnh của tiểu đoàn các đơn vị bộ binh đã triển khai chiến đấu, trung đội trinh sát, hậu cần, quân y nằm xung quanh  tiểu đoàn bộ.Tôi và Thỉnh, Cảng cùng một hầm với 3 khẩu AK. Lần đầu tiên gặp địch ai cũng hồi hộp và lo sợ, khi nghe thấy tiếng xe tăng gầm rú rợn cả người, rồi lát sau tiếng xe tăng nhỏ dần tưởng chừng ra xa. Không ngờ chúng giảm ga và tiến vào gần. Thế rồi loạt đạn AR 15 bắn vào cửa hầm, tôi thấy mát trên đỉnh đầu và máu chảy xuống trán, nhưng viên đạn chỉ sượt cầy da. Là lính mới chưa có kinh ngiệm, tiện túi bông băng bên mình tôi giở ra quấn trắng đầu rồi ghệch súng nấp sau gốc cây to chắn ngay cửa hầm.
        Cách đó khoảng hơn chục mét, chiếc xe tăng dừng lại rồi bàn tay đầy lông lá từ từ đẩy nắp tháp pháo, một tên lính nhô ra mặt đỏ, mắt xanh. mũi lõ, còn nòng pháo 75 ly từ từ quay lại phía tôi. Thì ra tôi bị lộ bởi cái đầu quấn băng trắng….
       Tôi mơ màng nghĩ mình đã chết …. à mà chết thì sao còn nghĩ được nhỉ,  rồi thấy toàn thân đau rát, với tay sờ mặt và người thì không thấy bị thương khi mở mắt ra trong hầm không còn ai. Thì ra khi quả pháo tự hành xe tăng bắn trúng gốc cây, tôi bị sức ép văng vào trong rồi ngất đi.
    Lúc này trận địa trở lại yên tĩnh chắc địch đã rút, tôi hoảng hốt bò ra theo cửa hầm phía sau thì gặp Cảng và Thỉnh đang ở đó tôi, mừng quá nhưng mọi người nói gì tôi cũng không nghe được bởi tai điếc đặc, Cảng chỉ vào khẩu súng, tôi hiểu ra họ hỏi súng của tôi đâu. Là vật bất li thân để mất súng sẽ bị kỷ luật tôi hoảng hốt bò lại hầm cũ và thấy khẩu AK bị vùi dưới đất đã bị cong gập. lấy được súng chúng tôi cùng nhau chạy về phía suối nước hàng ngày vẫn tắm giặt. May quá bên kia suối có tổ trinh sát và y tá đang quay lại đón lõng.
Về tới căn cứ dự bị, hôm sau nghe anh Ba Thân đi họp về nói: đơn vị đã đánh gập cuộc càn của trung đoàn xe tăng Úc, tiêu hao một đại đội địch, bắn cháy 5 xe tăng đơn vị cũng biểu dương và đề nghị lên trung đoàn tặng bằng khen cho đồng chí Mây lính mới quê Thái Bình bắn 5 quả B40 diệt 3 xe tăng địch.
                                                                                       7-1971

NGÀY TRỞ VỀ



Truyện ngắn
NGÀY TRỞ VỀ

Trên chuyến xe chở thương bệnh binh ra Bắc, Tân lòng rạo rực niềm vui đan xen khó tả, chắc giờ này vợ, cùng bố mẹ đã được tin và đang từng ngày, từng giờ mong ngóng anh về, làng xóm chắc cũng thay đổi nhiều lắm, không biết bố mẹ hai bên còn khỏe cả không, rồi cả giây phút bên Lan lúc chia tay anh không thể nào quên
Bỗng có tiếng nói cắt ngang dòng suy nghĩ, đồng trí trưởng đoàn phổ biến ngay trên xe. Hôm nay là đoạn đường cuối cùng chúng ta sẽ về an dưỡng tại đoàn 253 nơi dành cho cán bộ sĩ quan của quân khu đóng tại bến Hàn - Hải Dương. Ngày mai ổn định tổ chức, nhận quân trang, nghỉ ngơi, học chính trị sau nửa tháng hồi phục sức khỏe sẽ lần lượt cho anh em nghỉ phép về thăm quê.Tiếng vỗ tay rầm rầm và bài hát không có gì đẹp như hôm nay được cất lên tập thể.
Quê Tân là một làng nhỏ giáp thị xã Bắc Ninh, ngày mai anh được bố trí về phép đợt đầu, cả đêm rạo rực không ngủ được, chuẩn bị đồ đạc nào là thùng lương khô 72,, rồi miếng vải may áo dài cho Lan, cho mẹ, bộ quần áo Gabadin cho bố, trên ba lô Tân gài thêm chiếc khung xe đạp và con búp bê mua ở Sài Gòn.
Tựa mình trên ghế xe khách Tân miên man nghĩ và tự vẽ ra nhiều niềm vui và và kế hoạch. Cách đầu làng một đoạn Tân xuống xe, anh ngỡ ngàng trước sự thay đổi của quê hương, nếu như không có gốc đa này chắc anh không nhận ra cổng làng xưa, mà cũng mười năm rồi còn gì
Thấy anh còn ngơ ngác, bà hàng nước mời: 
-vào uống chén nước đã chú bộ đội ơi
Anh liền rẽ vào, trong quán mấy người đàn ông đàn bà chân còn lấm bùn, chuyện trò rôm rả, thấy Tân vào họ lui lại nhường ghế, đoán anh là bộ đội, thương binh từ trong chiến trường ra nhiều mọi người tíu tít hỏi thăm 
Bà hàng nước đon đả 
- Cháu ở thôn nào ta vậy
-Dạ cháu ở thôn Đông
Chúng tôi đây phần lớn ở thôn Đoài nhưng họ hàng ở thôn Đông cũng nhiều
- Vậy cháu là con nhà ai 
-Dạ cháu con bố Tô, mẹ Hoài ở xóm 4
Mọi người ồ lên chúc mừng ông bà Tô thật phúc đức quá, rồi tranh nhau hỏi anh ở chiến trường nào, có biết anh A, anh B đi năm ấy không?
Bà hàng nước đang vui bỗng buột miệng
- Thế anh có biết chuyện nhà chưa…….
Dạ sao ạ. 
À .. không có gì, thế cháu về được lâu không, xã ta có ai về cùng.
Ngồi nghỉ một lát Tân xin phép về nhà ngay, thấy anh lưng đeo tay xách, mọi người xúm mang hộ bởi vì trên đường về họ đều đi qua xóm 4, anh mừng quá cám ơn tiện mời các bác rẽ qua nhà cháu chơi ạ.
Nhận được tin con ra Bắc đã hơn hai tuần nay nhưng vì Tân dấu địa chỉ nên ông bà Tô suốt ngày mong đứng mong ngồi, nhưng lại rất trăn trở khi gặp thì nói với Tân thế nào về việc của Lan.
Chuyện là cách đây mười năm Tân được nghỉ phép về để chuẩn bị đi B,, lúc này xóm bên có Lan cũng vừa tròn mười tám tuổi đẹp nết, đẹp người vừa học xong cấp 3 là bí thư chi đoàn thôn, ông bà Tô rất quý nhân dịp Tân về phép liền gợi ý dạm hỏi cho anh, lúc đầu Tân không đồng ý bởi vào chiến trường sống chết không biết thế nào, nhỡ ra thì khổ cho người ta. Nhưng do sự vận động của gia đình với lại thương bố mẹ nên anh cũng xiêu lòng.
Qua thời gian tìm hiểu chóng vánh, Tân và Lan đã nên vợ nên chồng, 15 ngày phép vùn vụt trôi qua vừa thủ tục dạm hỏi, chuẩn bị cưới xin đã mất mười ngày còn năm ngày hai người đưa nhau thăm thú họ hàng gần xa và đắm chìm trong niềm hạnh phúc. Hết phép cũng tại đầu làng gốc đa quán nước này lan gạt nước mắt chia tay.
Thời gian đàng đẵng trôi qua, giặc mỹ càng điên cuồng đánh phá miền Bắc các lớp thanh niên lần lượt tòng quân, cùng trang lứa như Lan người thì vào TNXP , người thì đi Lâm nông trường. còn Lan một lòng phụng dưỡng cha mẹ hai bên, ngày đêm bám ruộng, bám đồng. Rồi bỗng một hôm không biết tin ở đâu mọi người xì xào thằng Tân con ông Tô đã hy sinh rồi nhưng sợ gia đình đau lòng nên chưa báo tử. Lan nghe tin khóc ròng, nhưng dấu sợ bố mẹ chồng buồn, từ đấy Lan lầm lũi làm việc như cái xác không hồn, người gày sút đi rất nhiều. Ông Bà Tô cũng mong manh biết chuyện âm thầm chịu đựng và càng thương Lan nhiều hơn, nhân có dịp có cán bộ nhà máy thuốc lá Sông Cầu về tuyển lao động ông bà khuyên lan xin vào nhà máy làm việc. Làm công nhân cách nhà mươi cây số xong tuần nào Lan cũng về thăm lo lắng chăm sóc cho bố mẹ chồng. mang tiếng lấy chồng mấy năm nhưng chỉ ở bên nhau vẻn vẹn năm ngày, Trong khu tập thể của nhà máy, phòng Lan có ba chị em cùng cảnh ngộ nên thương nhau lắm, hai người may mắn hơn chồng là thương binh từ chiến trường ra, nên họ đã xin nghỉ việc về quê. Còn mình Lan nỗi buồn và cô đơn càng thêm trĩu nặng
Cùng phân xưởng có người bạn trai rất thương Lan, biết tin chồng cô đã hy sinh, mấy lần định ngỏ lời nhưng cô từ chối bởi chưa có giấy báo tử
Thế rồi trong một phút nhẹ dạ mủi lòng và những gì đã xảy ra trong cái đêm định mệnh ấy đã đến. Người bạn trai sau này cũng lên đường rồi hy sinh nơi cổ thành Quảng Trị.
Đời Lan như bước vào ngõ cụt, cô xin nghỉ việc nhà máy, bụng mang dạ chửa về làng thú tội với bố mẹ chồng, nhưng ông bà Tô không quở trách mà lặng lẽ thương Lan hơn
Ông Tô hỏi: Vậy giờ con tính sao?
Dạ con xin phép về bên bố mẹ đẻ ạ
“Thôi cũng đành” ông Tô đáp, dưới âm chắc thằng Tân cũng không nỡ trách con đâu.
Thoát cái đã chín năm tám tháng, hôm nay Tân về, bố mẹ anh chị em hàng xóm láng giềng tập trung đầy nhà chúc mừng,. Ông bà Tô cười nói chào mời ríu rít, nhưng không thấy Lan đâu, Tân vừa định hỏi thì ông Tô trả lời ngay: vợ con đang ở nông trường chắc tối nay sẽ về tới nhà. Tân yên chí vui vẻ trở lại anh kể chuyện những trận đánh rồi gặp người này người kia cùng xã cùng huyện. Bảy giờ tối nhà hết khách mâm cơm dọn ra với những món ăn mà ngày xưa Tân rất thích, bà Tô mua chuẩn bị từ chiều.
Ăn cơm xong lên uống nước ông bà ngập ngừng không biết nói với con bắt đầu từ đâu, thấy bố mẹ có vẻ khác lạ cộng với cái thở dài của bà hàng nước đầu làng, Tân linh tính có điều gì không hay nên gạn hỏi. Không thể dấu được ông bà đành thuật lại đầu đuôi câu chuyện.
Một thùng nước lạnh đổ vào đầu, Tân như người mất hồn anh không nói gì rồi lặng lẽ bỏ vào nhà trong. Bao nhiêu mong nhớ, đợi chờ và mơ ước đã tan biến, cả đêm không ngủ được hôm sau Tân xin phép trở lại đơn vị cho khuây khỏa.
Mới về nhà được hai ngày thấy Tân trở lại vẻ mặt phờ phạc, đoán rằng có việc chẳng lành đã xảy ra mọi người tập trung hỏi han mãi đến chiều Tân mới nói. Anh em xúm lại động viên, nhiều ý kiến cho rằng cũng nên thông cảm với cô ấy, con gái có thì, mà mình biền biệt ngần ấy năm trời lại còn tin hy sinh nữa chứ. Tôi xen vào một câu chung quy lại do thằng Mỹ cả, nếu không chúng ta đâu phải thế này, mọi người ồ lên ủng hộ. Đoàn trưởng Lê Hoàn quê ở Thái Bình, anh là chính trị viên tiểu đoàn người trầm tính ít nói, anh bảo “Quê tớ có cậu cũng vào chiến trường tám năm mới ra, về nhà thì bố mẹ mất cả, chị gái lấy chồng xa, vợ không nhận được tin tức đã bỏ di lấy chồng khác , nền nhà xưa chỉ còn là bãi trống, phải bắt xe lên nhà chị gái ở nhờ, thế mà cậu ấy vẫn vượt qua được và mới xây dựng hạnh phúc với cô giáo trường làng, còn với bạn theo mình hãy cứ gặp nhau xem tình cảm thế nào nếu bỏ qua được hãy bỏ qua , và tham khảo ý kiến gia đình xem sao”. Như được vén đám mây mù Tân thấy nhẹ cả lòng và hôm sau lại tiếp tục về quê. 
Nghe tin Tân về Lan khóc rất nhiều và cũng không dám sang gặp nhau để nói lời cuối cùng, bố mẹ đẻ Lan thấy vậy dục: Thôi thì sự thể thế này con cứ sang nhận tội với ông bà, và chồng con, còn quyết thế nào thì chịu thế cho phải nhẽ”
Tân đang ngồi trong nhà bỗng thấy bóng Lan thoáng qua ngoài ngõ anh vội lao ra , ông bà Tô cũng lặng lẽ rút lui
Lan…Lan …anh về đây rồi. Lan khóc và ấp úng em ...em ..có tội… với anh.
Thôi em…đừng nói nữa anh hiểu cả rồi, sự mất mát trong chiến tranh là rất lớn, cả đất nước gánh chịu chứ không riêng gì chúng ta, anh vẫn còn hơn nhiều đồng đội khác. Rồi Tân kéo Lan vào lòng và ôm chặt lấy cô, Lan òa nên khóc như chưa tùng được khóc bao giờ, nước mắt ướt đẫm vai anh, nước mắt tủi hờn và hạnh phúc.
Ngày mai anh sẽ sang thưa cùng bố mẹ xin đón em và con về, con của đồng đội anh, cũng là con của anh. Rồi Tân dắt tay Lan ra gốc đa đầu làng, nơi mà ngày xưa hai người đã từng hò hẹn và chia tay, trời vào thu gió mát nhè nhẹ thổi lên từ phía cánh đồng mang theo chút hương thơm cùng mùi nồng nồng, ngai ngái của đầm sen.
Đỗ Trọng Kim
Ảnh minh họa Intenet

CHIẾN TRƯỜNG KHÔNG TIẾNG SÚNG

CHIẾN TRƯỜNG KHÔNG TIẾNG SÚNG
Truyện ngắn

Buộc chặt bao gạo được vắt ngang trên giá đèo hàng của chiếc xe đạp Phượng Hoàng đã cũ. Hắn nắn từng chiếc lốp, xem lại bao, bơ, áo mưa như kiểm tra vũ khí trước khi ra chiến trường.
Xong xuôi vào bàn thờ châm nén hương khấn vái cầu may, sao cho chuyến đi trót lọt. Rồi đùn xe ra khỏi nhà lòng hồi hộp, lo lắng không khác gì bước vào trận đánh năm xưa.
Trời về khuya không trăng sao, đoạn đường khoảng mười cây số sao mà nó dài thế. vài chục cân gạo mang lên thị xã bán cho mấy bà hàng bún hồi đó được coi là phạm pháp, quản lý thị trường, công an, phòng thuế vây bắt như bắt thuốc phiện. Nền kinh tế bao cấp của đất nước sau chiến tranh chưa được xoá bỏ vẫn ngăn sông cấm chợ.
Năm 17 tuổi hắn đã thoát ly gia đình đi học ngành cơ khí được hơn hai năm thì nhập ngũ và đi chiến trường, đến sau giải phóng được ra bắc nhưng lại vướng chiến tranh biên giới. Là thương binh hắn được điều về tỉnh đội HD công tác. Năm 1976 xây dựng gia đình vợ hắn cũng là người cùng quê. Mới vài năm sinh liền một trai hai gái. Tuy là sĩ quan nhưng lương thấp, đồng tiền trượt giá cuộc sống gia đinh chật vật bữa no bữa đói. Thế rồi nhân có chính sách mới của cán bộ quân đội bấy giờ phải có bằng cấp, ai chưa thì đi học, ai không học thì về phục viên hay nghỉ chế độ.
Ăn còn chả đủ lấy đâu ra mà đi học, nhà lại còn mẹ già , con nhỏ hắn liền xin ra quân, may mà có thương tật ở chiến trường, hắn được nghỉ theo chế độ thương bệnh binh có chút phụ cấp cùng mười ba cân gạo phiếu.
Ba gian nhà tre vách đất cây cột cong queo, đêm ngủ chẳng cần đóng cửa. tài sản bao năm của hắn gói gọn để trong hòm quần áo là mấy tấm huân chương, huy hiệu chiến dịch, mà hắn coi như báu vật bởi nó là kỷ niệm của một thời chinh chiến, mấy đứa con ngày một lớn và khỏe mạnh thật phúc đức tổ tiên đã phù hộ, bởi có một thời hắn đã ở vùng nhiễm chất độc da cam.
Về quê tưởng khôi phục ngay được kinh tế gia đình nào ngờ làm gì thất bại đấy, trồng tỏi xuất khẩu cho HTX thì không đủ sản lượng, do chưa có kinh nghiệm, trồng dưa hấu phải năm thời tiết không thuận, đang xanh mơn mởn quả lăn lóc như lợn con thì gặp mưa bão mất hết, đã khó lại khó hơn. Bỏ ruộng hắn đi làm phụ cho đội thợ mộc, lúc cưa xẻ, lúc bào vỡ, rồi cả thợ xây dựng, miễn là có tiền đong gạo nuôi con.
Chưa đến 40 mươi tuổi trông hắn như một lão già, người gầy như cây củi lúc nào cũng giấu mình trong bộ quân phục cũ bạc màu. Vất vả cực nhọc, nhưng hắn thầm nghĩ đã thấm gì với hồi ở chiến trường, nhiều khi ăn lá dại, rau rừng thay cơm, rồi chiến dich hàng tháng không được ngủ, lại đạn bom cái sống cái chết dập rình bất cứ lúc nào, những phút ấy chỉ ước ao được về quê, mẹ luộc cho nồi khoai rồi nghĩ đến bát cơm chan với canh cua, cà muối mà chảy nước miếng. Rồi có lúc hắn lại tỏ ra hối hận giá không xin về cứ ở quân đội biết đâu giờ lại khá hơn, nhưng thôi đời có số mà. Cũng may vợ hắn chịu thương chịu khó không lời kêu ca. rồi hắn chợt nhớ tới bài thơ của nhà thơ Hoàng Đình Quang “Chúng mình sống đến hôm nay/ Còn bao nhiêu đứa gửi thây rừng già/ Ơn trời đất, ơn mẹ cha/ Đội ơn vợ đã vì ta mà nghèo!”
Quê hắn là một làng nghèo , người đông ruộng ít, hợp tác hóa nông nghiệp, thời vụ làm hưởng theo công điểm chẳng được là bao, chưa hết mùa đã hết thóc, nghề phụ kiếm ăn thêm là hàng xay hàng sáo quanh quẩn chợ làng chẳng được bao nhiêu. Nhiều đêm trăn trở cứ cái ngữ này bao giờ mới ngẩng mặt lên, rồi con cái học hành ra sao. Cái khó ló cái khôn, ngày còn tại ngũ ở thị xã giá gạo chênh với quê hắn vài đồng một cân, mà quê mình lại làm nghề thóc gạo sao mình không mang lên bán để kiếm lời nhỉ, nhưng ngặt nỗi chính sách bấy giờ cấm đoán địa phương nào tiêu thụ địa phương ấy, kể cả rau quả nông sản mang sang địa phương khác coi là buôn lậu, nếu quản lý thị trường bắt được sẽ tịch thu,
“Đói ăn đầu gối phải bò” hắn đành đánh liều lên thị xã thăm dò tìm mối bán. còn hơn tạ thóc lương ăn của gia đình trong sáu tháng hắn bàn với vợ mang ra làm vốn, và cuộc chiến khác lại mở ra với hắn, đó là thương trường cũng khó khăn, ác liệt không kém, ban ngày các trạm kiểm sát liên nghành chốt chặn đường lớn, tuần tra đường tắt qua làng, thường xuyên ngày cũng như đêm. Nói dại không may bị bắt thì cả nhà chỉ còn nước đi ăn mày, và chính hắn là người có tội với vợ con.
Đêm nay cũng như bao đêm khác vài chục cân gạo trên xe nặng như khối bộc phá đi công đồn, tắt qua mấy làng ven đô chó sủa vang, nhưng mọi người dân cũng chẳng lạ gì thời buổi khó khăn cánh buôn đi sớm. Còn hắn lại hình dung như mình đang đi trinh sát vào lòng địch để chuẩn bị cho trận đánh, đối với hắn giống nhau cả mà thôi xương máu và sự sống.
Đỗ Trọng Kim

THĂM DOANH TRẠI CŨ

Tản văn
THĂM DOANH TRẠI CŨ

Chiếc xe 16 chỗ ngồi, tăng ga lên dốc, thời tiết se lạnh, những hạt mưa xuân như giăng bụi. Con đường ngoằn nghèo đi vào khu Than Thùng thuộc chân núi Yên Tử- Quảng Ninh bây giờ khác xưa nhiều quá, nhựa rải phẳng lì, hai bên toàn nhà xây hiện đại, cửa hàng, biển hiệu san sát
Đã lâu rồi hôm nay nhân dịp đi lễ chùa Yên Tử đầu năm, tôi tranh thủ ghé thăm doanh trại huấn luyện của ngày mới nhập ngũ . Nói là doanh trại nhưng bây giờ tất cả không còn nữa. Sau chiến tranh khu vực này được giao lại cho địa phương để mở rộng khu du lịch, chỉ những quả đồi đầy hoa sim năm ấy vẫn còn, nếu không nhờ mấy người dân chỉ bảo thì chắc cũng không nhận ra. Ngày ấy chúng tôi còn trẻ lắm chỉ từ 19 đến 20 tuổi, tất cả xúng xính trong bộ quân phục Gabadin Trung Quốc màu cỏ úa rộng thùng thình. Xuống xe tôi men theo bờ suối lên phía đồi sim, tuy bao năm rồi nhưng dấu vết của những công sự và trường bia, bãi xạ kích vẫn còn mờ dấu vết. Những buổi học quân sự, những ngày lên núi lấy tre nứa làm doanh trại vẫn còn in đậm trong kí ức. Sau những buổi tập trên thao trường chúng tôi lại tranh thủ lên đồi sim ngắm những bông hoa sim tím, nhỏ đẹp như hoa đào ngày tết và những quả sim chín mọng to như đầu ngón tay cái, ngan ngát tỏa hương, rồi đọc đi, đọc lại những bức thư của người yêu, người thân thân gửi tới.
Tiền thân của đại đội toàn là sinh viên năm thứ 2, thứ 3 của trường Trung cấp chế tạo cơ khí được sơ tán về xã Tân Dân huyện Khoái Châu Hưng Yên. Theo tiếng gọi của tổ quốc tạm gác bút nghiên làm nghĩa vụ của người thanh niên thời chiến. Trường lúc bấy giờ có 2 khối cơ khí 68, 69 và 1 khối động lực nhưng có tới 70% là nữ. Tất cả anh em trúng tuyển đợt này đều được biên chế cùng đại đội. Ngày 28-4-1970 là ngày chính thức nhập ngũ từ Khoái Châu Hưng Yên hành quân về xã Thạch Khôi huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương để ổn định tổ chức, phát quân trang sau đó chuyển về doanh trại Than Thùng –Yên Tử huấn luyện.
Xen lẫn huấn luyện Quân sự, là hành quân đường dài, leo núi, mang vác nặng, với sức thư sinh không quen nắng gió tôi tưởng như không chịu nổi, nhưng rồi tập luyện cũng quen dần . Những buổi sinh hoạt chính trị,văn nghệ của đại đội, lời ca tiếng hát vang lên như thúc dục, làm cho lớp trẻ chúng tôi hừng hực khí thế “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Và đến ngày 2-11-1970 thì nhận lệnh đi B (Vào Nam chiến đấu với phiên hiệu đoàn 2241 miền Đông Nam bộ)
Từ ấy đến nay đã gần nửa thế kỷ, và 40 năm đất nước hòa bình chúng tôi người còn người mất, nguời thì hy sinh ở chiến trường, người mất do bệnh tật, chất độc da cam, còn lại tất cả đã nghỉ hưu. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:
“Gió mây đi, không đợi nắng xuân về
Hãy bay đi mà che những đoàn xe
Và những đoàn quân tuôn ra tiền tuyến....”
Trong tôi, như được sống lại trong không khí hào hùng của đất nước.
ĐTK 3 - 2015
(*Đại đôi 4 Tiểu đoàn 540 Trung đoàn 5 Quân khu Tả Ngạn)

TẬP KÍCH ĐỒN ÔNG QUẾ

Hồi ký
TẬP KÍCH ĐỒN ÔNG QUẾ
Phần I
Đồn Ông Quế (thuộc xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ tỉnh Đồng Nai trước giải phóng thuộc tỉnh Long Khánh ) do một đại đội lính VNCH đóng giữ, gồm hai khu quân sự và gia binh, xung quanh từ ngoài vào được quây bốn lớp rào thép gai bùng nhùng và cũi lợn, trong cùng là hệ thống mương để ngăn chặn xe tăng. Bốn góc có bốn lô cốt được trang bị đại liên và M72.
Sau một tuần trinh sát điều nghiên, trung đoàn lên kế hoạch tập kích,
Cuộc họp được nhanh chóng triệu tập. Tôi trung đội trưởng trinh sát tiểu đoàn 1, với anh Phan Đình Lậm đại đội trưởng đặc công trung đoàn, cùng chỉ huy các đơn vị pháo binh, thông tin, quân y, hậu cần đã có mặt.
Khi nghe trưởng ban tác chiến và trinh sát trình bày, trung đoàn trưởng Hai Phê đứng trước sa bàn căn dặn và giao nhiệm vụ cụ thể cho các mũi. Đây là trận đánh nhằm tiêu hao sinh lực định yêu cầu đánh nhanh rút gọn. Và đến giờ G đêm nay hành động.
Nhận lệnh đại đội đặc công gồm 11 người, trinh sát tăng cường 3, một thông tin bộ đàm. Đúng giờ cả đội hình tập hợp kiểm tra vũ khí . Tất cả gồm 15 người cởi trần mặc quần đùi đi dày mỏng đội mũ mềm đặc công, toàn thân dùng lõi pin trộn đất xoa lên kín người chỉ chừa hai mắt. Pháo 105, DKZ cũng vào vị trí yểm hộ. Đại đội trưởng Lậm và chính trị viên Vũ Đức Hải động viên và giao nhiệm vụ cho từng người, từng cánh để tiếp cận mục tiêu
22h 30 xuất phát tôi dẫn tổ trinh sát đi đầu dùng kìm cắt hàng rào kẽm gai để mở đường, trời sáng trăng suông nhưng nhìn rất rõ
Không gian yên tĩnh, nhìn xa vào nhà chính đèn vẫn sáng thỉnh thoảng có bóng mấy tên lính ra vào, còn khu gia binh đèn tắt, ánh sáng của những điếu thuốc lá cháy dở vẫn lập lòe các lô cốt. Thấy địch còn thức đại đội trưởng Lậm báo ra sở chỉ huy, giờ G được lùi lại và chúng tôi tất cả nằm im giữa hàng rào, muỗi vo ve châm ngòi , vắt tha hồ hút máu nhưng chẳng ai để ý.Trên trời thỉnh thoảng những chiếc đèn dù nơi xa lơ lửng trên cao phát sáng và những con chim ăn đêm quang quác gọi bầy. gió mát những cơn mưa đến lại đi vì lúc này đang là mùa mưa.
Lệnh từ chỉ huy sở giờ G ( 0h giờ) nổ súng vậy là còn 20’ nữa các mũi đã qua hết hàng rào và vào các vị trí đã phân công. Thời gian lúc này trôi đi rất chậm như nghe thấy từng giây ( Tâm lý người lính trước trận đánh rất ngổn ngang suy nghĩ, hồi hộp lo âu thậm chí cả lo sợ.)
Đến giờ đại đội trưởng Lậm truyền lệnh điểm hỏa, không gian yên tĩnh bừng lên những chớp lửa với tiếng nổ bộc phá inh tai chát chúa, tất cả các khu nhà ở của lính đều nổ tung, mặt đất rung lên, riêng khu gia binh tuy không bị phá hủy nhưng tiếng kêu khóc của gia đình vợ con lính rất hoảng loạn. Các bốt phía ngoài đã bị B40, 41 của ta hủy diệt song phần phía trong đại liên và 12,8 ly vẫn hối hả xả đạn, ta dùng lựu đạn, Ak chiến đấu phía ngoài, sâu trong đã được pháo, cối và DKZ khống chế. Vì ban đêm lại bất ngờ nên địch không tiếp viện ngay được, lực lượng tại chỗ còn rất mỏng cho nên chúng cầm cự ở các chiến hào ta không tiêu diệt được. Lúc này đã 4 giờ sáng theo kế hoạch mọi người tự động rút lui ra ngoài , tôi đứng hẳn người lên nhìn cây độc mộc bên ngoài lấy hướng cứ thế bò, như có sức mạnh vô hình tôi vượt hết hàng rào ra ngoài, cũng may không vấp phải mìn. Tuy không bị thương nhưng toàn thân bị dây thép gai cào nát, về căn cứ trời cũng đã sáng dần, pháo địch bắt đầu bắn phong tỏa khu rừng xung quanh rất ác liệt.
15 người chúng tôi về được 10 người, thiếu 5 người, không biết còn hay đã hi sinh.


Phần 2
Cố lôi những bao cát xếp thành cái hầm đủ lọt người nằm. Cảng vội chui vào, kéo kín chỉ để hở khe mắt nhỏ phía ngoài. Nguyên là khi rút lui anh mất phương hướng không tìm thấy đường ra, trời dần sáng sợ địch phát hiện phải liều mình nằm lại chờ thời cơ. Sau những trận pháo dọn đường. Máy bay trực thăng từ sân bay Biên Hòa phành phạch bay đến quần lượn trên đầu rồi đáp xuống bãi trống đổ quân tiếp viện. Cảng nằm im quan sát, bọn lính nhanh chóng thu dọn xác lính còn nằm rải rác trong các công sự và bị vùi lấp trong các khu nhà đổ. Lính bị thương và xác lính được chuyển lên trực thăng rồi bay đi. Ở giữa sân đồn, Cảng nhìn thấy chúng lôi xác 4 chiến sỹ của ta cởi trần người đen nhẻm xếp thành hàng rồi cho phóng viên báo chí đến chụp ảnh và đăng tin tuyên truyền. Một tên Mĩ xì xồ mấy câu thì tên thiếu tá ngụy ra lệnh mang hết xác ra đường quốc lộ để thị uy dân chúng.
Xe tải chở vật liệu vào, phế liệu ra. Những xe tôn mới tinh cùng khung sắt nhanh chóng dựng lên làm lại các khu nhà lính. Đồng thời tăng cường vũ khí, khôi phục lại các lô cốt, giao thông hào. Đến khoảng 3h chiều, nằm trong trong đống bao cát ngổn ngang, Cảng nghe tiếng huỳnh huỵch bên ngoài xen lẫn tiếng chửi thề của địch, “chắc chỉ vài phút nữa mình bị bắt sống”, mồ hôi toát ra tim đập thình thịch rồi anh hình dung những đòn tra tấn khi anh là tù binh, thôi đành nhắm mắt phó mặc số trời. Bỗng đâu cơn mưa sầm sập đến, mây che đen nghịt cả bầu trời, mưa rất nhanh nước xối xả trắng xóa. Bọn lính vội vã chạy hết về những khu nhà mới dựng, cơn mưa dài hơn một giờ đồng hồ thì giảm dần và trời bắt đầu tối trong khu nhà chỉ huy đã thấy ánh đèn, bọn lính tản ra các công sự mắc bạt che tăng
Đúng là số trời. Cảng quan sát nghe ngóng không động tĩnh gì anh liền khẽ xoay mình lật mấy bao cát,rồi trườn dần ra ngoài bởi đôi chân tê cứng vì nằm bất động từ sáng đến giờ, lấy lại tinh thần nhỏm dậy quan sát tìm đường, rồi vội vàng bò ra khỏi bốn lớp rào mặc cho thân người bị cào nát mà không biết đau, tới bìa rừng thì anh ngất đi…
Tỉnh dậy Cảng ngơ ngác thấy mình đang nằm trong lán tre và có nhiều người đứng xung quanh reo lên cậu ấy đã tỉnh rồi, đổ nước cháo và tiêm hồi sức là ổn. 
Hỏi ra mới biết cả hôm sau đơn vị cử nhiều tổ bám xung quanh trận địa để tìm các đồng chí không về thì gặp Cảng và đưa anh về trạm quân y. Tự nhiên anh chảy nước mắt và khóc nấc lên vì chính anh, chính mắt anh đã nhìn thấy 4 đồng đội người đen thui bị địch kéo xác ra đường quốc lộ. 
Theo tin của địch đã đưa “Đồn Ông Quế đã bị ta tập kích xóa sổ gần hết đại đội VNCH”, gây cho địch vô cùng hoang mang bởi đây là vị trí sát nách thị xã Xuân Lộc..
10-1973

VƯỢT SÔNG ĐỒNG NAI

Hồi ký
VƯỢT SÔNG ĐỒNG NAI
Hành quân từ Bắc vào đến nay đã tròn tám tháng. Trải qua biết bao gian nan ác liệt trên đường, nào là bị bom đánh, gặp biệt kích rồi mưa lũ, sốt rét rừng quân số đã vơi đi một phần bởi nằm lại các binh trạm.
Đơn vị đã đến bờ sông Đồng Nai và bên kia sông là nơi đón nhận tân binh của trung đoàn 4 (Q4). Bây giờ đang vào mùa mưa, nước lớn ngập tới chân tre, dòng sông rộng ra như gấp đôi ngày thường, chảy cuồn cuộn đỏ ngầu từ thượng nguồn đổ về cuốn theo những cây gỗ , can phao, lưới cá của dân cùng rác rưởi
Tạm thời chúng tôi dừng lại đợi nước rút, nhưng trời vẫn mưa mỗi ngày một đến hai trận, lương ăn đã cạn, mỗi bữa tiểu đội 12 người chỉ được một bơ bột mỳ nấu loãng cùng lá bướm, măng rừng tạm sống qua ngày.
Ban chỉ huy tiểu đoàn tổ chức cuộc họp khẩn cấp, nếu không qua được thì chỉ hai ba ngày nữa bột mỳ cũng không còn bộ đội sẽ chết đói. Một số ý kiến đề ra nối dây rừng với nhau bơi qua sông cột lại để anh em dựa vào lần sang, không có cách nào khác đành làm như vậy, nhưng không thể sang được vì những đoạn dây vừa kéo ra đều bị cuốn trôi.
Bên này sông toàn rừng già không có dân nên việc tiếp tế mua bán lương thực không được, còn bên kia sông là rãy Bàu Hàm ngô khoai của dân trồng đang vào mùa thu hoạch.
Không còn cách nào khác , Đảng ủy, ban chỉ huy tiểu đoàn lên kế hoạch và nhanh chóng phổ biến xuống từng tiểu đội, ba lô hàng lý cho hết vào túi ni nông của TQ (to gần bằng chiếc bao tải được cấp khi đi B, bây giờ được dùng đến) cột chặt lại làm phao, nồi xoong, xẻng, cuốc bỏ hết chỉ mang theo súng đạn ngay chiều nay sang sông .
Tiểu đội tôi còn khoảng ba bơ bột mỳ bỏ ra nấu nốt, bởi nếu vượt được sông sang kia sẽ có lương thực, còn như ….. không phải làm con ma đói
4h chiều lệnh xuất quân bắt đầu. Nhìn dòng nước chảy xiết trong lòng ai cũng ớn lạnh, nhưng phải lao vào chỗ chết để tìm sự sống, không ai bảo ai tất cả ùa xuống sông tay bám phao súng gác trên chân đạp nước sang ngang. đoạn này sông tuy rộng nhưng nước chảy nhẹ hơn và cứ thế xuôi dòng khoảng hơn một cây số thì cũng tạt dần được sang bờ, may thời gian này máy bay địch không hoạt động.
Hơn một tiếng đồng hồ tất cả đại đội lần lượt sang hết bờ leo nên nằm thở, bỗng phát hiện một chiến sỹ mất phao bị nước cuốn trôi cách bờ chừng 20 m đang quấn vào lưới cá của dân mọi người ùa xuống kéo dong vào bờ thì đã ngất xỉu vì uống no nước( Cậu ta tên là Nguyễn văn Quân quê ở Hà Tĩnh biệt danh Quân thi sỹ bởi làm thơ rất hay)
Y sĩ cùng mọi người vội vàng cứu , người dận ngực, người hô hấp một lát nước trong miệng ộc ra và dần tỉnh lại, vừa mở mắt Quân đã đọc hai câu thơ:
Làm trai chưa xứng là trai
Phú Xuân chưa trải Đồng Nai hết hồn*
Làm mọi người cùng cười ồ lên thoải mái.
…………………………………………………………………………………………………………………………………
*Dựa theo câu ca dao
“Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng”

ỐNG SIRO





















ỐNG SIRO
3h chiều ngày 20-11-1973 nhận được lệnh của ban chỉ huy tiểu đoàn, đi trinh sát, bám theo trung đoàn xe tăng thuộc sư đoàn 18 của địch đang hành quân từ thị xã Xuân lộc về Long khánh trên đường 20
Tôi trung đội trưởng cùng 2 chiến sĩ (trung đội trinh sát của tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 4 trực thuộc quân khu miền đông nam bộ) chuẩn bị súng đạn, ống nhòm, địa bàn, máy thông tin cấp tốc ra chốt.
Qua mấy ngôi nhà tranh nhỏ của những người dân bất hợp pháp bỏ trống, chắc là do địch càn đã chuyển đi nơi khác, trong nhà không có thứ gì. Trên mặt chõng tre đầy bụi có hộp giấy bóc dở, bên ngoài có hình hoa quả, trong là những ống tiêm to như ngón tay màu đỏ, đập vỡ có mùi thơm biết là siro nguyên chất để pha nước uống, tiện tay tôi cho mấy ống vào túi áo ngực.
Đường 20 đoạn này thuộc chi khu Đất Đỏ, hai bên là những lô cao su được trồng từ thời Pháp, mép đường vào tới lô cao su khoảng 200m là bãi trống và rừng cây lúp xúp nhưng có thể ngụy trang, đối phương rất khó phát hiện.
Chúng tôi tìm nơi có cây cổ thụ to khuất sâu trong bìa rừng thay nhau trèo lên quan sát. Đến 5 giờ chiều thì nghe tiếng động cơ to dần và một đoàn xe xuất hiện, đi đầu có hai chiếc GMC chở lính theo sau khoảng hơn chục chiếc xe tăng M48, phía đuôi lại 1 chiếc GMC bọc hậu, đúng như trinh sát kỹ thuật trung đoàn đã báo, đến địa phận xã Phước Lai chúng dừng lại và tản ra hai bên đường đóng quân để chuẩn bị cho trận càn ngày mai. Lúc này trời đã xẩm tối, thời tiết cuối năm sương mù buông phủ, trước mắt chỉ lờ mờ những lùm cây. Tôi liên tục điện về chỉ huy sở, và được lệnh tiếp tục bám địch. Lúc này ở hậu cứ tiểu đoàn đã triệu tập cuộc họp cấp tốc và lên kế hoạch tập kích, gồm 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội cối 81 tăng cường nếu không có gì thay đổi giờ G xuất phát.
Nhận lệnh chúng tôi ra đón và dẫn đơn vị vào khu vực tác chiến. Tôi dẫn mũi chủ công còn hai chiến sĩ Trần Chén, Nguyễn Thành ( người quê Ý Yên Nam Hà) dẫn đường hai mũi bên
Đêm tĩnh lặng và tối đen, ba mũi tiến dần áp sát địch, mũi tôi đi chạm vào dây bảo vệ, đèn dù bật sáng. Phát hiện có Việt cộng đạn 12,8 ly từ xe tăng bắn chéo cánh sẻ qua chúng tôi và la hét inh ỏi, tôi ngã sấp xuống mô đất thấy nhói và lành lạnh phần ngực. Trong ánh sáng đèn dù thấy ngực mình ướt và màu đỏ loang ra ngoài áo, các chiến sỹ đi cùng cho là tôi bị thương nặng và tôi cũng tưởng vậy, mọi người truyền nhau cho y tá và cáng thương bò lên để đưa tôi lại phía sau. Qua mấy giây trấn tĩnh thấy mùi thơm bốc lên, thì ra khi tôi ngã mấy ống Siro đỏ hồi chiều bị vỡ. Lúc này đèn dù bật sáng chúng tôi đã nhìn thấy những chiếc xe ẩn trong lùm cây xối xả nhả đạn
Mục tiêu đã rõ ràng, 2 cánh bên cùng áp sát, Cối 81 và B40, B41 nhằm thẳng mục tiêu phát hỏa. Những ánh chớp xanh lẹt chói lòa sau đó là các quầng lửa bùng lên dữ dội chùm kín những chiếc xe tăng. Hai xe GMC cùng một số tăng còn lại gầm rú nhao lên quốc lộ rồi chạy về phía Long Khánh. Thừa thắng quân ta đang truy kích thì được lệnh trung đoàn toàn quân rút ngay vì sau ít phút nữa địch sẽ cho pháo binh hủy diệt trận địa. Về đến căn cứ đã 4 giờ sáng, ăn vội gói mỳ ăn liền, mặc cho quần áo chân tay lấm lem rồi lăn ra ngủ.
Chiều hôm sau tôi và các cán bộ chủ chốt đại đội và trung đội trực thuộc, tập trung ở tiểu đoàn bộ họp rút kinh nghiệm trận đánh
Tiểu đoàn trưởng Hùng Nhướng ( Anh tên là Hùng người miền Tây có tật hay nháy mắt nên có biệt danh là Hùng nhướng) đánh giá và biểu dương thắng lợi trận đánh, ta bắn cháy 1 xe GMC và 4 chiếc xe tăng 2 chiếc bị thương, xóa sổ một trung đội bộ binh (Theo nguồn tin của phía bên VNCH và đài BBC) đồng thời bẻ gẫy cuộc hành quân càn quét của địch. Còn phía ta hy sinh 3 bị thương 5 nhưng trong đó có trung đội trưởng trinh sát Đỗ Trọng Kim bị thương vào ngực máu chảy đầy áo nhưng vẫn anh dũng chiến đấu, mọi người quay lại nhìn tôi rồi bật tiếng cười vang bởi tôi vẫn đang mặc chiếc áo loang đỏ màu Siro.
ĐTK