Thứ Tư, 26 tháng 9, 2018

NHỮNG NGÀY Ở TRƯỜNG SƠN



Phần1
NHỮNG NGÀY Ở TRƯỜNG SƠN
Truyện ký
Trời mưa tầm tã con đường từ Cự Nẫm đến trạm 5 lầy lội, những vết bánh xe hằn sâu xuống đường như hai rãnh thông hào. Đoàn xe Zin khơ của Liên xô gồm 16 chiếc chở bộ đội ì ạch nghiêng ngả có đoạn lún sâu, cả trung đội chúng tôi lại xuống dô đẩy, xe trước móc kéo xe sau, như đưa pháo vào trận địa thời chống Pháp. Dốc lên xuống trơn trượt, hàng giờ mới nhích được khoảng cây số. Đây là chuyến xe cuối cùng ở địa phận miền Bắc trước khi vào cửa ngõ Trường Sơn. Trời tối đen như mực, le lói ánh sáng vàng úa của những chiếc đèn gầm, được che khuất bởi những cành lá ngụy trang. Nhìn mặt đường như cháo loãng đoàn trưởng hội ý nhanh cùng ban chỉ huy, phải mau chóng vượt qua nếu trời sáng sẽ là mục tiêu cho máy bay địch. Thế là mệnh lệnh phát ra: “Tất cả đơn vị xuống hành quân bộ”, đây đến trạm dừng quân, giáp biên giới Lào chỉ còn khoảng mươi cây số xuyên qua những cánh rừng già, đèo dốc cao dần 
“Tất cả bám sát, không hút thuốc tránh để lộ ánh sáng”. Đồng chí đại đội trưởng truyền lệnh xuống. Trong không gian lặng tĩnh chúng tôi mới cảm nhận được đêm rừng, mưa tạnh dần, màn đêm đen quánh, các miếng lân tinh được gài lên mũ hoặc sau ba lô để bám sát nhau. Rồi tiếng chim lợn ném vào không gian từng hồi eng éc …như thần chết gọi hồn nghe rợn cả tai, xen lẫn tiếng gió trên cao, hun hút từng cơn.
Những quả pháo sáng, sáng bừng lên từng chùm như xé toạc màn đêm, hết chùm này đến chùm khác, được thả xuống từ những chiếc L19, VO10 quần thảo trên đầu nghiêng ngó tìm con đường tiếp viện của ta.
Chúng tôi Từ Yên Tử -Quảng Ninh vào đến đây, tuy cả ngàn cây số nhưng có xe đưa đón, ngày nghỉ đêm đi tránh máy bay địch. Đến địa phương nào có cán bộ du kích địa phương đó ra đón, rồi đưa vào nhà dân nghỉ lại. Miền Trung cũng như các tỉnh ngoài Bắc đều nhộn nhịp khí thế chống mỹ. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Từ Hà Tĩnh trở vào đến Vĩnh Linh là nơi trọng điểm đánh phá của máy bay địch vào đường tiếp tế của ta. Các làng làng bản chủ yếu là các ông bà già và trẻ em, nam thanh niên thì nhập ngũ, nữ TNXP vừa trực chiến vừa san lấp hố bom thông đường cho các chuyến xe qua.
Gần 3 giờ sáng, vượt qua dốc núi cao đi xuống thung lũng là tới trạm trú quân, mấy cô giao liên chờ sẵn đưa chúng tôi vào “bãi khách”. (Bãi khách là một khu rừng nơi bộ đội đóng quân nấu cơm sinh hoạt mắc võng ngủ qua đêm để mai đi tiếp) , nên đã có sắn cả bếp Hoàng Cầm âm trong mặt đất cùng nhiều vị trí mắc tăng võng, được ngụy trang kín đáo.
Lần đầu tiên bước chân vào Trường Sơn, mưa trơn lầy lội, dốc cao mang vác nặng ai cũng mệt nhoài cảm giác không thể bước nổi. Mắc võng xong để hai chân bẩn đầy bùn thòng xuống đất và tất cả chìm vào trong giấc ngủ, những con vắt rừng thấy hơi người liền đội lá vươn lên ngoe nguẩy chui cả vào trong giày tất mà hút máu, no tròn như những quả sim chín.
Hôm sau chúng tôi được binh trạm phổ biến mọi nội quy cũng như những kinh nghiệm khi hành quân, nhất là tránh lộ khói lửa, ngụy trang kín đáo hầm hố công sự, bởi những chiếc máy bay C130 có cả hệ thống tia hồng ngoại dùng để phát hiện mục tiêu không phát sáng trong đêm. Đồng thời Không gây tiếng động lớn để biệt kích phát hiện
Nghỉ một ngày ổn định tổ chức, bổ sung gạo để đủ ăn, đến kho sau cấp tiếp. Mỗi người 1 bao tượng gạo chúng tôi còn mang thêm súng AK và cơ số 300 viên đạn, hoặc một khẩu B40 với 3 viên đạn cùng quân tư trang, thuốc men, đồ ăn mỗi người lính được cấp một ống cóng ruốc thịt, trong đó pha trộn thuốc chống sốt rét, tê phù... một kilôgam muối để dùng cho toàn bộ chặng đường, cùng bát đũa, ăng gô, xoong nồi vv…
Đường Trường Sơn có hai đường cặp hai bên, là Đông Trường Sơn và Tây Trường sơn. Đông Trường Sơn phần lớn dành cho bộ đội vào B4, B5. Còn Tây Trường Sơn dành cho bộ đội vào B2, B3 và hai đường luôn có nhánh thông sang nhau. Đoàn chúng tôi vào B2 nên đi bên Tây Trường Sơn. Khi ngang qua những đoạn đường dành cho cơ giới, những cô gái thanh niên đang san đường khăn choàng kín mặt chỉ còn lộ hai con mắt rất trong và đẹp tôi chợt nhớ lời bài hát “ Người con gái sông La, hai mắt trong tựa ngọc” với tiếng cười khúc khích rồi một tiếng hát xứ Nghệ vang lên “ Từ bên em đưa sang bên nơi anh/ Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến” ôi hay và xúc động quá. Một cậu lính ngẫu hứng hát tiếp: “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm,\ Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây” 
Và cuộc hành quân bắt đầu. Với khẩu hiệu: "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” cả đơn vị được giao liên dẫn đường vượt sang tây Trường Sơn thuộc đất Lào. Trời bắt đầu khô ráo và thời tiết se lạnh, những khu rừng già như một mái nhà che kín không nhìn thấy mặt trời, chỉ còn những chấm nắng nhỏ nhoi xuyên qua tán lá rừng nhảy nhót. Tôi chợt nhớ tới lời thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật: Một dãy núi mà hai màu mây/ Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác/
Bên đông Trường Sơn lúc này do những đám mây mang hơi nước từ biển vào gặp dãy trường Sơn đổ xuống thành mưa. Nhưng sang Tây Trường sơn thì ngược lại. đứng trên đỉnh núi cao Trường Sơn ngắm nhìn xung quanh như một biển mây trắng xóa lác đác có những ngọn núi xuyên lên. Máu thi sỹ trong tôi trỗi dậy với dòng nhật ký: Chân đạp đất, tay vờn mây/ Núi chồng lên núi, rừng cây xanh mờ/ Ba lô, gậy trúc lên thơ/ Trường Sơn đẹp lắm, ngẩn ngơ mắt nhìn.
Trên dốc núi cheo leo là những khu rừng già với những cây gỗ phải ba bốn người giang tay mà không hết chu vi, có lẽ hàng ngàn năm tuổi. rồi những dòng suối trong ngần mát lạnh chảy từ trên cao xuống mà quanh năm không hết nước, cá tôm nhiều vô kể. Thiên nhiên thật tuyệt vời. Cảnh thì đẹp vậy nhưng cuộc hành quân chúng tôi vô cùng gian khổ, những ngày đầu đi bộ, đôi chân mỏi nhừ, hai vai sưng tấy vì mang nặng. Đa số chiến sĩ mới mười tám đôi mươi cân nặng trung bình mới có 45 cân người gầy mà mang trên mình bằng một nửa trọng lượng cơ thể, nhiều anh em gần như không đi nổi, ăn uống thiếu thốn lúc nào cũng đói. Dọc theo tây Trường Sơn chúng tôi đi qua không biết bao núi cao sông suối, cả các bản làng của dân Lào. Đi cũng quen dần, quân tư trang cái gì không cần bỏ bớt để giảm trọng lượng trên lưng
Thỉnh thoảng ven đường gặp những người dân lào, đàn ông da móc mật tóc hơi quăn chỉ mỗi cái khố, đeo bên mình con dao quắm, đàn bà thân mặc váy thổ cẩm rách với chiếc khăn bạc màu che ngực mang gùi trên lưng, nhưng ai cũng có một cái điếu rất to , nõ nhét thuốc to như cái bát con với cục than hồng hít liên tục cả khi nói chuyện với người khác. Họ bày các thứ nào là mớ rau, túm củ mài, vài bắp ngô ra lề đường mòn đổi tư trang và muối của bộ đội Việt Nam. Còn bộ đội ta có thêm cái ăn mà mang vác lại nhẹ hơn. Đầu tiên là mũ cối, rồi chăn màn, thậm chí quần áo dài đổi bớt, hai người chỉ cần ba bộ thay nhau. 
Cứ 5 ngày nghỉ một ngày hoặc 6 ngày nghỉ một ngày tùy theo vị trí kho gạo của binh trạm để bổ sung lương thực. Thời gian trôi dần đi, chúng tôi không còn khái niệm ngày tháng, tuần, thứ mà chỉ biết trăng khuyết lại tròn, tròn xong lại khuyết, phần lớn là hành quân ban ngày nhưng cũng có nơi do rừng thưa trống trải nhiều thì phải đi đêm.
Địch không ngăn chăn được bước chân của người chiến sĩ giải phóng, chúng dùng máy bay thả truyền đơn, món đòn tâm lý chiến hòng lung lạc tinh thần của bộ đội ta. Bài thơ “lá thư gửi mẹ” nằm trắng đường Trường Sơn ai cũng thuộc lòng, mọi người thu lượm làm giấy vệ sinh thay cho lá rừng. Lính ta không những không nản lòng mà còn tự hào soi mình trong thơ để "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai".
Qua biết bao đèo dốc và núi cao, dọc theo tỉnh Savannakhet. Nhưng kỷ niệm nhất với tôi là cao nguyên Poloven thuộc tỉnh Salavan lúc này sức quân đã giảm, sốt rét rừng bắt đầu hành hạ, phần lớn những người to béo hơn chút là bị trước, chúng tôi phải phân chia tư trang để mang giúp cho nhau, có người sốt 40-41 độ vẫn chống gậy hành quân theo cùng đơn vị. Sốt rét là căn bệnh do muỗi rừng cùng các côn trùng khác trong rừng gây ra, khi bộ đội ta ăn uống thiếu thốn sức kiệt nên dễ bị nhiễm. Khi mắc bệnh người tự nhiên thấy đói và mệt, rồi rét từ trong ruột rét ra, bao nhiêu chăn đắp mà vẫn run cầm cập, sau cơn sốt là nóng, nóng toát mồ hôi, miệng không muốn ăn chỉ khát nước. Nếu nặng sẽ chuyển sang ác tính, hoặc bị tâm thần suốt đời, những người vượt qua được thì da dẻ xanh tái do thiếu máu, sức khỏe suy giảm dẫn đến kiệt sức. Ở ngoài bắc chúng tôi được trang bị thuốc chống, chủ yếu là Chloroquin (Nivaquine), vài trăm viên B1và 1 hộp Polyvitamin để nâng thể lực. Mới đi được hơn 2 tháng quân số đơn vị giảm dần vì phải gửi vào các trạm xá đường dây để điều trị.
”Nhớ một lần khi chúng tôi vượt qua sườn núi đá cheo leo, cách đường mòn gần chục mét, thấy một cái võng giăng dưới một vòm cây, hình như có người đang ngủ ở trong đó. Có lẽ “dân tụt tạt”. Nghĩ vậy nhưng chúng tôi lần tới xem sao. “Rõ khỉ, ngủ gì mà say thế” - tôi nghĩ. Nhưng khi mở võng ra, chúng tôi không nói được lời nào. Người chiến sĩ ấy đã vĩnh biệt đồng đội chẳng biết tự bao giờ, có lẽ vì một cơn sốt ác tính. Da mặt đen sạm, đôi mắt nhắm không nói lên được điều gì nhưng những người đang sống thì rất hiểu và phải hiểu.”
Chúng tôi tạm nghỉ đào huyệt, lấy tăng võng khâm niệm cho bạn, vĩnh biệt bạn mà không có nén nhang chỉ vài bông hoa trắng giữa đại ngàn Trường Sơn.
Tôi lúc này trọng lượng cơ thể không chắc còn 40 kg, nhưng vẫn mang vác đủ cơ chế. Lúc cuối ngày, bắt đầu không còn đội ngũ, mọi người rải rác cách xa nhau vì quá mệt. Cao nguyên dốc không cao, thoai thoải nhưng rất hiếm nước, mỗi người một bi đông suốt ngày không đủ. Nghe tiếng thông reo vi vút mọi người tự lừa dối mình đấy là tiếng suối chảy để cố gắng hành quân. Tiểu đội tôi có cậu Doanh bị sốt không đi nổi tụt lại phía sau, tôi phải ở lại dìu và phải đeo hai ba lô cho mình và cho bạn, cái đằng trước, cái đằng sau, chắc phải hơn 30 kg lại còn súng nữa chứ. Mệt quá tôi giơ súng lên trời bắn 3 phát chỉ thiên để báo đơn vị cho người quay lại đón. Chờ mãi không thấy, tôi động viên bạn, kéo lê từng bước rồi nửa đêm cũng về tới trạm. 
Hai hôm sau cũng trên cao nguyên tôi bị lên cái nhọt trên đầu gối chân bên phải, tuy nhỏ nhưng rất đau, nổi hạch đi lại rất khó. Cậu Đăng y tá đại đội xem xong bảo: anh để em nặn ra mai là khỏi thôi”. Ừ chẳng còn cách nào khác cũng hy vọng là vậy. Nào ngờ đây là chiếc nhọt đầu đinh, nhức cả đêm không ngủ được, sáng ra thấy đỏ ửng, sưng to như bắp chuối. Đơn vị đành để tôi ở lại, cũng may đây có trạm quân y. Thế là từ đây tôi chia tay đơn vị, chia tay đồng đội.
Điều trị hơn một tuần thì chân đã đi lại được và tôi tiếp tục lên đường, theo đơn vị thu dung bởi đơn vị đã đi quá xa rồi. Lại ngày đi đêm nghỉ vượt biết bao đèo dốc đến trạm 73 thì gặp Đỗ Thọ anh cũng bị sốt rét nằm lại hai người mừng mừng, tủi tủi gặp nhau xong tôi lại chia tay đi tiếp. đến trạm 76 tôi lại gặp Viết quê thị xã Hải Dương là lính cùng tiểu đội, người xanh xao gầy rộc cao lêu khêu. Nhớ ngày còn học trung cấp cùng lớp, Viết trắng trẻo điển trai, chữ đẹp mà còn hát hay chứ làm bao bạn gái xiêu lòng. Thế là hai chúng tôi sát nhập đoàn thu dung cùng đi. 
Tết năm 1971 đêm giao thừa nằm trong bãi khách chúng tôi được binh trạm phát cho mỗi người 2 điếu thuốc lá Tam Đảo, 5 chiếc kẹo Hải Châu, cùng hộp thịt không biết từ bao giờ, ngoài vỏ không còn nhãn mác đã loang màu han rỉ, nhưng không sao lâu lắm rồi chúng tôi chưa biết đến mùi thịt. . Khu bên cạnh là chỗ ở của đoàn thương binh ra Bắc đang chụm đầu bên cái đài bán dẫn mang từ chiến trường ra chờ nghe Bác Tôn chúc tết. Còn chúng tôi đang trên đường vào, biết bao gian nan và ác liệt phía trước. Và đây cũng là cái tết đầu tiên xa nhà, buồn phát khóc.Chắc giờ này ở quê bố mẹ, các em đang rộn ràng đón tết, nhà nhà bập bùng ánh lửa bên nồi bánh chưng, những dây pháo đỏ như son đang buộc sẵn chờ giây phút thiêng liêng của năm mới, ôi sao mà nhớ quá chừng. 
Kéo ba lô tôi lấy giấy bút viết mây câu thơ cũng là thổ lộ lòng mình: “Tết này con ở chiến trường xa/ Nhớ mẹ nhớ cha, lại nhớ nhà/ Nhắm mắt nằm mơ xuân vui quá/ Trên tăng dưới võng tưởng ngủ nhà.”. Tôi gọi cậu Viết dậy và đọc thơ cho bạn nghe. Viết lặng người một lát rồi nói: “bạn cho mình mấy câu thơ để mình viết thư sang nhờ đoàn thương binh gửi về quê” Bài thơ thật cảm động bởi tâm tư ai cũng vậy chẳng qua không viết được ra thơ mà thôi.( Câu thơ này sau 30 năm gặp nhau nhân dịp họp đồng ngủ tiểu đoàn ở thị xã Hải Dương, Viết gặp tôi đã đọc lại bài thơ rồi chúng tôi ôm nhau khóc như những đứa trẻ).
Nghỉ tết 2 ngày tôi được bổ sung vào đoàn Nam Hà và đi tiếp, còn Viết bị sốt rét mệt quá lại đưa vào quân y trạm. Giờ tôi lại có tiểu đội, trung đội quản lý và những người bạn mới. Xuống đến Nam Lào đúng dịp cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ triển khai, hòng triệt phá con đường vận chuyển quân lương vũ khí của ta vào chiến trường. Địch tăng cường trinh sát, ta gấp rút đưa tăng và pháo vào các vị trí đánh chặn. 
Nơi đây rừng núi hiểm trở hơn, hành quân càng gian khổ hơn bởi quân ta ngày càng đuối sức. Gạo không đủ ăn, mọi người lúc nào cũng thấy đói. Một hôm đi qua đường lớn có chiếc xe chở gạo bị bom đánh lật, gạo thấm đầy xăng chúng tôi hò nhau lấy về rang lên và ngâm nước, nấu ăn thêm vẫn ngon lành
Ngày nghỉ anh em lần vào rừng tìm rau tàu bay, càng cua, xuống suối tìm cây môn thục (giống như cây khoai môn ngoài Bắc) để cải thiện cho mát ruột. Một hôm có cậu lính ta ra suối thấy vụng nước sâu nhiều cá liền rút quả lựu đạn ném xuống sau tiếng nổ ùng thì cá nổi trắng mặt nước, đơn vị ào ra vớt mang về hôm đó chúng tôi được bữa cải thiện tuyệt vời. Nhưng cậu lính đó sau bị gọi lên binh trạm cảnh cáo vì tội gây tiếng động trong căn cứ.
Nhiều lúc trong rừng thẳm chúng tôi cũng không nhớ địa danh thuộc tỉnh nào. Cứ ngày đi đêm nghỉ. Rồi một hôm trạm giao liên phổ biến ngày mai vượt núi rất cao và hiểm trở mọi người lo chuẩn bị cơm nắm, nước uống đầy đủ tăng hơn mọi ngày. Đã qua hàng trăm núi cao đèo dốc, nhưng khi đến chân núi này quả thật rợn tóc gáy. Đường lên thẳng đứng đá tai mèo, chúng tôi bám vào những sợi dây song mà bộ đội binh trạm đã làm trước để leo lên . Chân người trên đạp đầu người dưới, đi không leo còn khó huống chi lại còn mang bao thứ trên người. thật khâm phục anh em bộ phận cối và 12,8 người đẩy, người kéo những nòng pháo tròn trơn tuột nặng gần tạ, hay bàn đế pháo tròn to gần bằng cái nia, cùng mọi tư trang đạn dược, thật kinh khủng chỉ cần chệch chân, tuột tay là rơi ngay xuống vực. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh không được chùn bước, tất cả vì miền Nam.
Thế rồi cuối giờ chiều chúng tôi đã vượt lên đỉnh dốc, mọi người năm la liệt thở, rồi giở cơm ra ăn. Nghỉ 1 giờ bắt đầu xuống dốc, lên khó khăn đã vậy xuống cũng chẳng kém gì sơ xuất là rơi mất tích, mãi gần tối thì chúng tôi cũng xuống đến nơi, bãi nghỉ ngay tại chân dốc. Hỏi giao liên mới biết đây gọi là: “dốc thang trời”
Càng đi xuống Nam Lào rừng đại ngàn nguyên sinh càng nhiều, âm u ngày cũng như đêm, muông thú nhiều, đêm đêm nghe tiếng nai kêu vượn hót rất buồn. Tiếng chim “bắt cô trói cột” chúng tôi gọi là “ Khó khăn khắc phục” như giục dã. Mùi lá nếp tỏa hương thơm lừng mà nhớ quê vô cùng. Tôi lại ngẫu hứng làm thơ: "Gió Trường Sơn đêm lại lạnh thêm\ Mưa ướt tăng che , gió luồn qua võng\ Nhưng niềm tin ngày mai đại thắng\ Về bên em trong giấc ngủ chập chờn…….."
Đơn vị lại phổ biến ngày mai ta còn phải vượt con dốc cao hơn và rất dài. Vậy mọi người chuẩn bị nước uống và có 3 nắm cơm. Lúc này đơn vị chỉ còn nửa quân số nên việc quản lý cũng gọn hơn. Cứ ngỡ dốc thang trời là cao nhất rồi, nhưng ngọn núi này còn cao hơn, được cái là không cheo leo, nhưng đường dài rất mệt. Đi một giờ nghỉ 10 phút, mọi người không kịp tháo ba lô ngồi xuống ngủ ngay, gần tối thì lên tới đỉnh dốc. Đứng trên cao nhìn xuống như một biển mây trắng bồng bềnh, không khí loãng, độ sôi chỉ khoảng 70 độ nên không nấu được cơm, phải ăn cơm nắm. Vậy đã hết 2 nắm cơm còn nắm nữa dành sáng mai ăn lấy sức xuống dốc, vì vậy mọi người đặt tên dốc này là: “dốc ba nắm”
Một hôm do bãi trống nhiều chúng tôi hành quân đêm vào đến bìa rừng già đóng quân nghỉ mai hành quân tiếp mọi người tranh thủ mắc võng và phân công nhau gần sáng dậy nấu cơm. Bếp của tiểu đội tôi không ngờ được đặt dướt tổ ong khoái to như cái dậm mà không biết. Gần sáng nhóm bếp, khói lên đàn ong bay ra toán loạn, lúc này trời đã mờ sáng. Đồng chí trung đội trưởng có kinh nghiệm nói như ra lệnh “không ai được đập chết ong mặc kệ nó bám vào người vào mặt”. Một cậu do ong bám vào cổ, buồn quá không chịu nổi vỗ chết một con, thế là đàn ong nhào vào đốt. Tôi hoảng quá chạy ra, càng chạy ong càng đuổi, mọi người thu xếp tư trang khoác ni nông từ từ ra khỏi vùng ong. Còn tôi bị chịu trận nhiều nhất nọc ong cắm chi chít trên mặt và cổ buốt vô cùng, sau một giờ hành quân mắt sung húp không nhìn thấy đường và sốt cao, cũng may trạm nghỉ chân cũng còn gần và hôm sau chúng tôi được nghỉ một ngày. Đúng là độc trị độc không biết có phải vậy không mà cuộc đời chinh chiến 6 năm ở rừng tôi không hề bị sốt rét.
Qua trạm này chúng tôi hành quân đỡ mệt hơn rừng dốc thoai thoải và thưa dần toàn những cây Sang lẻ thân trắng mốc như da cây ổi thẳng đứng và rất to, đặc biệt gỗ tươi hong qua là đun được. xen lẫn rừng Khộp ( Cây dầu chai) nhưng rất hiếm nước. Lúc này là mùa khô, các suối cạn ròng, chỉ còn ít vũng nước đầy những con nòng nọc, quăng quăng nhưng vẫn phải gạn về nấu cơm, nấu nước uống, cả tuần chẳng ai có khái niệm tắm giặt.
Vượt qua sông Nậm Bạc đi về phía tây nam đến dần biên giới ba nước Việt Nam- Lào –Campuchia ( Tại ngã ba Đông Dương này có hai đường hướng Đông Nam vào B3. Còn Tây Nam đi sâu trong đất Miên rồi vào B2 miền Đông Nam Bộ theo hướng Thủ Dầu Một tức là Bình Dương bây giờ ). chúng tôi từ giã Trường sơn, đi sâu vào đất Miên. 
Hết phần1

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét