Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

MÙA NHÃN

Truyện ngắn
MÙA NHÃN
Hai bố con ông Hoàn dùng lưới cố vén những chùm nhãn trĩu quả sà xuống ven đường, sợ xe qua lại làm rụng . Nhãn năm nay được mùa, chả là vào dịp tháng hai nhãn ra hoa không bị mưa phùn gió bấc, quả chi chít từng chùm như tranh vẽ. Vừa làm thằng Tú vừa nói với ông:
- Bán nhãn xong bố mua cho con chiếc xe máy, bố nhé.
- Ông cười nhìn con rồi gật đầu
Ông cũng hình dung mỗi cây nhãn to nhỏ bình quân chắc cũng đạt 2 tạ mà nhà ông có tới 5 sào ruộng với hơn 50 cây chắc chắn cũng trên mươi tấn quả. Được mùa rớt giá, cũng may ông trồng xen lẫn nhãn sớm được ghép mắt với giống nhãn đường phía nam , quả vừa to vừa ngọt lại được giá, còn phần lớn vào giữa vụ là nhãn lồng cùi dày ngọt thanh. Bên cạnh những hàng nhãn muộn là những dẫy ổi cũng đang vào mùa thu hoạch quả to như nắm tay người lớn, được bọc những vỏ giấy tránh côn trùng trông thật đẹp mắt.
Hai bố con hai luồng suy nghĩ, thằng Tú năm nay học đại học nông nghiệp năm thứ hai ở Hà Nội, nó cũng có sở thích giống bố cứ về đến nhà là sớm tối ngoài vườn, nào là trồng, ghép cây với các loại giống mới nó học được ở trường, cùng sưu tầm các loại hoa đẹp, năm nay có xe máy chắc tuần nào nó cũng được về thăm vườn.
Còn ông Hoàn lại hình dung cũng mùa nhãn năm ấy, cũng gần 30 năm rồi còn gì, ông về trọ học trung cấp cơ khí sơ tán về Khoái Châu- Hưng Yên, vùng châu thổ sông Hồng đất rộng người thưa, lúc đó đồng chưa trồng nhãn nhiều như bây giờ mà chủ yếu là chuối , đay và lúa. Ông nhớ lại những ngày giúp dân thu đay bẻ nhãn thật là vui. Cạnh nhà ông trọ có người con gái cũng xấp xỉ tuổi ông, nàng rất xinh đôi mắt bồ câu, da trắng mịn màng gò má lúc nào cũng ửng đỏ như son phấn. Ông thường sang bẻ nhãn giúp nhà nàng, với vẻ thư sinh đẹp trai nhưng lại dát gái, bởi vì thời ấy nhà trường biết quan hệ yêu đương trong khi còn đang học nhất là với dân thì sẽ bị phê bình. Nhưng rồi tình yêu đến bao giờ không biết, hai người ngày càng quấn quýt. Vào chiều tối thứ bảy hàng tuần nàng hay đưa ông ra bờ sông Hồng hóng mát ngắm trăng và nàng kể cho ông nghe truyện truyền thuyết quê nàng.
Đêm ấy mặt sông Hồng được phủ kín màu vàng của ánh trăng càng trở lên huyền ảo, sóng nước lung linh như dát bạc, nàng chỉ tay sang bên kia là bãi Tự Nhiên nơi mà Chử Đồng Tử vùi mình trong cát rồi gặp công chúa Tiên Dung, một thiên tình sử hàng ngàn năm còn lưu truyền. Nhìn lên phía trên là đền thờ của ngài, thấy vẫn sáng ánh đèn, nàng liền dắt tay ông lần từng bậc đá in đậm ánh trăng vào trước tam quan, nhìn bảng chữ nho khắc trên cuốn thư đã bạc màu loang lổ vết sơn son chắc là cũng vài trăm năm chứ không ít. Hai người bước vào chính điện thắp hương rồi cúi người khấn vái để các ngài phù hộ cho con đường công danh và hạnh phúc lâu dài.
Quê ông ở vùng Kinh Bắc cũng là nơi có nền văn hóa quan họ và tâm linh đền miếu rất nhiều, mỗi di tích đều có sự tích riêng qua lời kể của bà của mẹ, nhưng khi được nghe nàng kể ông yêu quý nền văn hóa nơi đây vô cùng. Ông hình dung mối tình của ông và nàng đến với nhau một cách tự nhiên cũng đẹp và thơ mộng không kém.
Một hôm cũng vào đêm trăng sáng hai người vẫn hẹn hò bên sông, ông hứa hẹn đưa nàng về thăm Kinh Bắc thưa cùng cha mẹ, nàng cười e thẹn rồi hai người ôm nhau.
Nàng khẽ kêu: đừng anh em sợ .... để …để….về thưa với bố mẹ đã. Những động tác ngăn cản nửa vời như chờ đợi hai môi gắn quyện với nhau và họ đã làm chuyện vợ chồng.
Thế rồi kế hoạch về Kinh Bắc đã không thực hiện được bởi lúc đó ông được lênh nhập ngũ tại trường, khi chia tay, nàng khóc rất nhiều hứa sẽ đợi chờ ông dù bất cứ hoàn cảnh nào và ông cùng thề nguyện nếu còn sống sẽ về tìm nàng.
Cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt mở rộng cả 2 miền. Huấn luyện 3 tháng đơn vị ông được điều vào miền đông Nam bộ,. Những ngày hành quân, những trận công đồn lúc nào ông cũng nghĩ về nàng, mùa nhãn năm nay không có người hái không biết nàng xoay sở ra sao. .
Trưởng thành trong chiến đấu ông đã là cán bộ tiểu đoàn, mỗi lần đón tân binh ngoài Bắc vào ông lại dò hỏi có ai Hưng Yên quê nhãn không, nhưng vẫn biệt tin nàng. Ngày giải phóng miền nam đã đến, ông lại vùi đầu vào bao công việc của ban Quân quản để ổn định kinh tế, chính trị sau chiến tranh. Thế rồi cuộc chiến phía Tây Nam lại nổ ra và đơn vị ông được điều ra biên giới, chống quân Khơ Me đỏ trong một trận chiến ông bị địch bắt. Chúng tra tấn khai thác, ông kiên quyết không khai sau đó bị đưa vào nhà giam sâu trong đất Miên.
Đất nước thống nhất đã lâu, hết lớp này lớp khác từ Nam ra nhưng ông vẫn biền biệt. nàng chỉ biết quê ông ở Bắc Ninh chứ còn thôn xã nào nàng đâu biết rõ có thể ông đã hy sinh và cũng có thể ông đã về lấy vợ khác. Nếu như không giữ được lời thề xưa thì có tìm được nhau cũng vô ích mà thôi. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng nàng vẫn tin rằng ông sẽ trở về.
Sau đêm ấy bên bờ sông, nàng thấy trong người khang khác biết đã có thai cha mẹ nàng rất buồn vì lộ ra cả làng, cả họ sẽ xỉ vả vì nhà có con gái chửa hoang. Cũng may nàng có ông chú ruột đi khai hoang ở Phú Thọ cho nàng lên ở trên ấy vài năm sinh nở xong con cái chững chạc rồi mới về quê. Từ đấy mẹ con nàng luôn sống trong đau khổ và chờ đợi. Cũng có mấy đám trong làng ngỏ ý nhưng nàng chối từ, cô con gái ngày mỗi lớn có nhiều nét giống cha, nàng vẫn củng cố niềm tin với con gái rằng:
- Thế nào cha cũng tìm về.
Chiến tranh phía Bắc, tây Nam đã yên, cả nước tập trung vào khôi phục kinh tế nhưng nước mắt hy vọng và chờ đợi vẫn luôn hiện hữu trong nàng.
Tình hình chính trị Căm Phu Chia đã ổn định, ông được đưa về Việt Nam, nhưng do bị tra tấn nhiều trong tù có lúc tưởng như không sống được cho nên sức khỏe rất yếu cùng vết thương thấu phổi, ngày đêm những cơn ho kéo dài hành hạ nên đơn vị chuyển ông vào viện quân y QK 7 điều trị và an dưỡng.
Ông nhớ nàng nhớ cái vùng quê nhãn, đã bao lần ông viết thư nhưng lại nghĩ từng ấy năm không biết nàng còn chờ đợi hay đã lấy chồng, thư viết lại cất đi không dám gửi
Một hôm có cậu bác sỹ mới ở Bắc vào quê Khoái Châu Hưng Yên, ông xoắn xuýt hỏi thăm thì ra cậu ta đúng cùng quê nàng, nhưng lại không biết tin tức gì bởi cậu ta thoát ly đi học xa nhà đã lâu, và cậu ta hứa sẽ viết thư về hỏi giúp ông.
Trong phòng cấp cứu và hồi sức sau khi mổ, ông còn đang thiêm thiếp miệng thở o xy, thì bên ngoài có người phụ nữ cùng đứa con nhỏ chừng hơn 10 tuổi tay xách, nách ôm hỏi thăm anh bác sỹ cùng quê và bệnh nhân tên là Hoàn, chị tự giới thiệu là vợ con từ Bắc vào thăm. Mở cửa phòng hồi sức, chị ngỡ ngàng nhìn ông một lát mà không dám nhận. khi thấy cánh tay ông có xăm hai chữ "Hoàn Hương" thì chị lao vào khóc nấc lên: Anh Hoàn ơi…anh tỉnh lại đi….. em đây… Hương đây… anh còn nhớ vùng nhãn quê mình không em mang nhãn vào cho anh đây. Mấy cô y tá vội dìu chị ra ngoài và nói:
“ Không sao đâu ca mổ rất tốt đã lấy được đạn ra khỏi phổi một giờ nữa hết thuốc mê là anh ấy tỉnh thôi chị yên tâm”
Con bé theo mẹ đi xe mấy ngày đã thấm mệt, nó hỏi mẹ ơi người nằm đấy là cha con hả mẹ. Nó nghe mẹ nói vậy nhưng vẫn là lạ thế nào ấy vì từ nhỏ nó chưa biết cha mà cả tấm ảnh cũng không có. Trời đã xế chiều hai mẹ con hồi hộp lo lắng ngồi trên chiếc ghế đá ngoài phòng chờ thì có cô y tá ra bảo:
- Anh ấy tỉnh rồi chị và cháu có thể vào.
Bỏ cả đồ đạc chị ào vào, nắm tay anh gọi trong nước mắt:
-Anh Hoàn… anh Hoàn ơi có nhận ra em không, Hương đây mà, Hương Xứ nhãn đây anh.
Hai giọt nước mắt lăn ra trên hai khóe mắt đầy vết chân chim của Hoàn, anh cựa mình xem có phải mơ không.
Hương gọi con:
vào với cha đi con
Đứa bé rụt rè, nàng kể:
- Sau thời gian anh đi em đã sinh con năm nay nó 12 tuổi rồi đấy.
Đúng rồi Hoàng chia tay Hương nay cũng gần 13 năm rồi còn gì. Hoàn sung sướng vẫy tay, con bé nhào vào:
-Cha …cha ơi.
Nàng lấy khăn thấm nước mắt trên má ông và nói:
- Anh cố điều trị mau khỏe, còn về với mẹ con em.
Một năm sau bình phục ông được ra Bắc, về quê báo cáo chính quyền cùng họ hàng hai bên gia đình, ông và Hương đã chính thức là vợ chồng , mọi người chúc mừng khen Hương, có tình có nghĩa trời đã bù đắp lại.
Vợ chồng con cái đưa nhau về quê nội một thời gian rồi lại về Hưng Yên bởi ông bà ngoại không có con trai năm nay lại yếu nhiều. sau vài năm thì Hương lại có bầu và sinh con trai và chính là thằng Tú bây giờ. Nhưng số phận thật trớ trêu, lần sinh này do tuổi hơi cao, Hương khó đẻ và mất máu nhiều phải đưa lên viện tỉnh nàng đã sinh con xong thì lên cơn co giật và không cứu được. Hoàn như người mất hồn ông ôm con khóc nức nở, họ hàng hai bên nội ngoại tập trung lo tang cho Hương. Và từ đấy ông một mình gà trống nuôi con. Những ngày đổi gió trở trời con khóc, bố khóc hàng xóm ai cũng thương cảm, may còn ông bà ngoại lo lắng cho. Vết thương trong lòng ông cũng lành dần, thời buổi kinh tế khó khăn đồng tiền trượt giá, lương thương binh chẳng là bao, ông tìm làm bất cứ việc gì, kể cả đi buôn miễn có tiền đong gạo nuôi con. Vài năm sau ông bà ngoại mất còn lại ba cha con, bé Hường lớn đã học xong đại học xin việc ở Hà Nội và lấy chồng, ở nhà còn hai bố con với 5 sào ruộng theo trào lưu chung, ông không cấy lúa mà trồng nhãn. Cây nhãn mà ngày xưa ông vẫn trèo hái cho nàng nay đã thành cổ thụ nhưng do được chăm sóc, cấy ghép quả rất sai to và ngọt, cứ khi thu hoạch nhãn là ông lại hái những chùm to nhất về thắp hương cho vợ, rồi ông ra bãi sông Hồng nơi kỷ niệm một thời, ngồi ngắm nhìn dòng nước chảy.
Tú con trai ông học xong cấp 3 nhiều người tư vấn thi ngành này, ngành nọ nhưng cậu không nghe, kiên quyết thi vào trường nông nghiệp. Nguyện vọng khi học xong sẽ về quê chăm vườn nhãn mà bố mẹ cậu đã từng yêu quý
Bỗng có người hàng xóm qua đường nói vọng vào:
- Nhãn nhà ông năm nay quả to và đều, sáng vỏ dễ bán, và nghe đâu lễ hội nhãn tỉnh ta vừa ký xuất bán với nước ngoài rất nhiều.
Ông cười:
-Vâng tôi cũng nghe vậy
Để con buộc nốt tấm lưới treo quả, ông đi sâu vào vườn đúng nơi cây nhãn cổ chọn những chùm quả to và đẹp nhất mang về.
25-82018

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét