Chiếc
xe 16 chỗ ngồi, tăng ga lên dốc, thời tiết se lạnh, những hạt mưa xuân như
giăng bụi. Con đường ngoằn nghèo đi vào khu Than thùng thuộc chân núi Yên tử Quảng
ninh bây giờ khác xưa nhiều quá. Đường
nhựa rải phẳng lì, hai bên toàn nhà xây hiện đại, cửa hàng, biển hiệu san
sát.
Đã lâu
rồi, Hôm nay nhân dịp đi lễ chùa Yên Tử đầu năm, tôi tranh thủ ghé thăm doanh
trại huấn luyện của ngày mới nhập ngũ . Nói là doanh trại nhưng bây giờ tất cả
không còn nữa. Sau chiến tranh khu vực này được giao lại cho địa phương để mở rộng
khu du lịch, chỉ còn những quả đồi đầy hoa sim năm ấy vẫn còn, nếu không nhờ mấy
người dân chỉ bảo thì chắc cũng không nhận ra.
Ngày ấy chúng tôi còn trẻ lắm chỉ từ 19 đến 20 tuổi, tất cả xúng xính
trong bộ quân phục Gabadin Trung quốc xanh thẫm rộng thùng thình, đại đội 1* của
tôi nằm ngay cạnh con suối sát chân núi Yên tử
Tôi men theo bờ suối lên phía đồi sim, tuy
bao năm rồi nhưng dấu vết của những công sự và trường bia, bãi xạ kích vẫn còn
mờ dấu vết. Những buổi học quân sự, những ngày lên núi lấy tre nứa làm Doanh trại
vẫn còn in đậm trong kí ức.
Sau
những buổi tập trên thao trường chúng tôi lại tranh thủ lên đồi sim ngắm những
bông hoa sim tím, nhỏ đẹp như hoa Đào ngày tết và những quả Sim chín mọng to
như đầu ngón tay cái, ngan ngát tỏa hương, rồi đọc đi, đọc lại những bức thư của
người yêu,người thân thân và bạn bè,
Tiền
thân của Đại đội tôi toàn là sinh viên năm thứ 2 và 3 của trường Trung cấp chế
tạo cơ khí được sơ tán về xã Tân Dân huyện Khoái Châu Hưng Yên. Theo tiếng gọi
của tổ quốc tạm gác bút nghiên làm nghĩa vụ của người thanh niên thời chiến.
Trường lúc bấy giờ có 2 khối cơ khí 68, 69 và 1 khối động lực nhưng có tới 70% là nữ. Tất cả
anh em trúng tuyển đợt này đều được biên chế cùng đại đội. Ngày 28-4-1970 tôi
chính thức nhập ngũ và hành quân về xã Thạch khôi-Gia lộc Hải Dương để ổn định
tổ chức và phát quân trang sau đó hành quân về Doanh trại Than Thùng –Yên tử huấn
luyện.
Xen lẫn huấn luyện Quân sự, là hành quân đường dài, leo núi, mang vác nặng,
với sức thư sinh không quen nắng gió chúng tôi tưởng như không chịu nổi. Nhưng
rồi tập luyện cũng quen dần .
Những buổi sinh hoạt chính trị,văn nghệ của đại đội, lời ca tiếng hát
vang lên như thúc dục, làm cho lớp trẻ chúng tôi hừng hực khí thế “ Đường ra trận
mùa này đẹp lắm”. Và đến ngày 2-11-1970 chúng tôi nhận lệnh đi B (Vào Nam chiến đấu với phiên hiệu
đoàn 2241miền Đông Nam bộ)
Từ
ấy đến nay đã 45 năm gần một nửa thế kỷ, và 40 năm đất nước hòa bình chúng tôi
người còn người mất, nguời thì hy sinh ở chiến trường, người mất do bệnh tật,
chất độc Da cam, còn lại tất cả đã nghỉ
hưu. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:
“Gió mây đi, không đợi nắng xuân về
Không bay đi mà che những đoàn xe
Và những đoàn quân tuôn ra tiền tuyến....”
Không bay đi mà che những đoàn xe
Và những đoàn quân tuôn ra tiền tuyến....”
Trong
tôi, như được sống lại trong không khí hào hùng của đất nước.
Đỗ Trọng Kim 7-2015
(*Đại
đôi 4 Tiểu đoàn 540 Trung đoàn 5 Quân khu Tả Ngạn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét